Tác động của hội nhập kinh tế đối với sự phát triển công nghiệp nông thôn Việt Nam
Trong sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực kinh tế nông thôn, đặc biệt là công nghiệp nông thôn (CNNT) - vốn đang nhỏ bé, lạc hậu, chậm phát triển cả về quy mô, công nghệ và hiệu quả sẽ bị tác động mạnh hơn cả. Do vậy cần nhận diện đầy đủ tác động (cả tích cực và tiêu cực) của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà trực tiếp là quá trình thực hiện cam kết của WTO đối với sự phát triển của CNNT để có giải pháp phù hợp, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thúc đẩy CNNT phát triển, hoàn thành mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1. Tác động tích cực
- Tăng nguồn lực cho phát triển CNNT.
Nhìn chung, CNNT của nước ta hiện đang rất thiếu vốn, không chỉ vốn cho sản xuất mà cả vốn cho đầu tư ban đầu và vốn cho hoạt động thường xuyên. Nhiều cơ sở chỉ có mức vốn dưới 0,5 tỉ đồng và không quá 200 lao động; vốn đầu tư cho thiết bị còn hết sức khiêm tốn. Theo khảo sát của Bộ Công thương, chỉ có 20,2% cơ sở CNNT được khảo sát có giá trị đầu tư ban đầu trên 500 triệu đồng, 66,4% cơ sở đầu tư dưới 300 triệu đồng, còn lại 42,8% cơ sở đầu tư dưới 100 triệu đồng.
Với việc gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp chế biến sẽ gia tăng. Với lợi thế là nước nông nghiệp, chúng ta có những điều kiện nhất định để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản. Nếu tạo được môi trường thuận lợi thì các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính lớn và kinh nghiệm kinh doanh hàng nông sản sẽ lập những nhà máy sơ chế hoặc chế biến nông sản để sản xuất và nhập khẩu những mặt hàng mà họ đang có lợi thế về công nghệ và thị trường. Đây là cơ hội lớn góp phần tăng nguồn vốn cho phát triển CNNT thông qua liên doanh, liên kết; khắc phục sự thiếu hụt nguồn vốn từ bên trong, tạo điều kiện cho CNNT phát triển.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ cho CNNT
Cùng với tăng nguồn vốn, sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào CNNT còn góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ cho CNNT trên cả ba mặt là sản phẩm, phương tiện kỹ thuật và phương pháp sản xuất. Cơ sở vật chất của CNNT ở nước ta còn nghèo nàn, trình độ công nghệ, kỹ thuật ở mức thấp. Nước ta có thế mạnh về chế biến xuất khẩu thủy sản nhưng có đến 154 trên tổng số 470 doanh nghiệp chế biến thủy sản của cả nước (chiếm gần 33%) có công nghệ thiết bị còn ở dạng lạc hậu, vệ sinh kém, thiếu đội ngũ và thiết bị kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, khó khăn trong việc "xuyên, vượt" các hàng rào kỹ thuật của thị trường xuất khẩu. Với trình độ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu như hiện nay, CNNT khó có khả năng phát triển, hiệu quả sản xuất - kinh doanh thấp, sản phẩm không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, thậm chí không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh và ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào CNNT là cơ hội lớn, góp phần đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, hiện đại hóa CNNT cả về máy móc thiết bị, phương pháp sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Phát triển kết cấu hạ tầng cho CNNT
Mặc dù có sự đầu tư và cải thiện đáng kể, nhưng nhìn chung hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn nước ta còn rất kém phát triển, không đồng bộ, tác động bất lợi cho sự phát triển CNNT, không chỉ hiện nay mà cả trong thời gian tới. Những năm gần đây, mặc dù kết cấu hạ tầng nông thôn phát triển nhanh nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cho việc phát triển CNNT nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung, nhất là giá điện cao, chất lượng đường giao thông nông thôn thấp. Hiện nay, về điện, cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 100% số xã có điện; về giao thông, cả nước có 96,9% số xã có đường ô tô đến được trung tâm xã nhưng chỉ 70% trong số đó được nhựa hóa, bê tông hóa, còn giao thông liên thôn thì chỉ đạt 64,8% được bê tông hóa theo các mức độ khác nhau. Hệ thống kho tàng, bến bãi, nước, thông tin liên lạc, dịch vụ, chợ… hầu như chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện nay, cả nước có 7.341 chợ dân sinh, trong đó có 5.549 chợ dân sinh nông thôn, chiếm 75,59% số chợ dân sinh của cả nước. Nhưng mật độ chợ dân sinh lại thưa thớt, bình quân cứ 3 xã có gần 2 chợ. Hầu hết các chợ nông thôn có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất đơn sơ, tạm bợ, lực lượng tham gia sản xuất - kinh doanh chủ yếu là những người kinh doanh nhỏ và người sản xuất nhỏ… Tất cả làm hạn chế sự phát triển CNNT.
Sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào CNNT cùng với sự gia tăng đầu tư kết cấu hạ tàng nông thôn của Nhà nước sẽ kéo theo gia tăng đầu tư và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn cả từ các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Chính việc phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, đặc biệt là hệ thống kho tàng, chợ sẽ trực tiếp thúc đẩy CNNT phát triển.
- Mở rộng thị trường cho sản phẩm CNNT
Thị trường là nhân tố quan trọng chi phối sự phát triển của CNNT nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Với việc gia nhập WTO, thị trường hàng hóa nói chung và thị trường sản phẩm CNNT nói riêng sẽ được mở rộng ra thế giới (hơn 150 thành viên) với tư cách là một đối tác bình đẳng, không phân biệt đối xử. Sản phẩm CNNT, nhất là hàng nông, lâm, thủy, hải sản xuất khẩu sẽ chịu mức thuế suất thấp, cùng với việc dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan; thị trường tiêu thụ sản phẩm CNNT sẽ không ngừng được mở rộng cả về quy mô và không gian thị trường. Nếu như năm 1986, năm đầu tiên thực hiện công cuộc đổi mới, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 400 triệu USD thì đến năm 2006 đã đạt 7,1 tỷ USD, tăng hơn 17 lần. Những thị trường nhập khẩu lớn hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam như thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… đều có sự tăng nhanh về tỷ trọng và khối lượng. Đây là cơ hội lớn cho sự phát triển của CNNT trong thời gian tới, nhất là các ngành chế biến nông, lâm, thủy sản, thủ công mỹ nghệ.
Với việc mở rộng thị trường, khó khăn lớn nhất trong việc phát triển CNNT đã có lời giải. Vấn đề còn lại là làm thế nào để sản phẩm của CNNT chiếm lĩnh và khẳng định được vị thế của minh trên thị trường thế giới.
- Nâng cao trình độ quản lý, sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp CNNT
CNNT chủ yếu hướng vào khai thác các nguồn lực sẵn có ở địa phương, sử dụng lao động nông nhàn. Trình độ quản lý, cũng như trình độ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp CNNT rất hạn chế. Tỉ lệ giám đốc các cơ sở CNNT có trình độ cao đẳng, đại học chỉ khoảng 31% và đa phần trưởng thành từ lao động thực tiễn, quản lý bằng kinh nghiệm. Lực lượng lao động trực tiếp không qua trường lớp đào tạo mà chủ yếu qua truyền nghề, năng suất lao động không cao. Ngoài ra, khả năng liên doanh, liên kết trong sản xuất - kinh doanh kém và thiếu thông tin cũng là rào cản trong việc phát triển thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đối với CNNT.
Với việc hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư nước ngoài vào CNNT sẽ tăng lên, kể cả việc lập chi nhánh, trực tiếp tổ chức sản xuất - kinh doanh. Vì vậy, đây là cơ hội lớn để các doanh nghiệp CNNT thay đổi cách thức quản lý, cách thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, kể cả với các nhà đầu tư nước ngoài. Chính điều này góp phần nâng cao trình độ tổ chức quản lý và sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp CNNT ở nước ta.
- Góp phần đổi mới chính sách và cách thức chỉ đạo, quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển CNNT.
Mặc dù đã có nhiều đổi mới trong chính sách và sự quản lý điều hành nhưng nhìn chung, chính sách của Nhà nước đối với sự phát triển CNNT còn trùng lắp, chồng chéo nhau, thiếu tính đồng bộ, chưa đúng với vai trò, vị trí của nó trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, việc vận dụng những cơ chế, chính sách vẫn còn mang nặng yếu tố chủ quan, tùy vào từng địa phương, từng người lãnh đạo quản lý. Chính sự vận dụng thiếu nhất quán đó không những tạo ra sự không bình đẳng giữa các đơn vị giữa các vùng miền, mà còn làm hạn chế khả năng mở rộng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp CNNT. Gia nhập WTO, thực hiện các cam kết về thể chế, chính sách trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ làm cho môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, bình đẳng và minh bạch hơn, tạo điều kiện phát triển sản xuất - kinh doanh tốt hơn cho CNNT nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đi đôi với việc ban hành, sửa đổi các chính sách, các quy định phù hợp với các cam kết quốc tế thì cách thức quản lý, điều hành của Nhà nước và Chính quyền các cấp đối với CNNT cũng được đổi mới về căn bản theo hướng tạo thuận lợi CNNT như: cải cách thủ tục hành chính, xúc tiến thương mại và đầu tư. Chính vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội thúc đẩy CNNT phát triển thông qua việc đổi mới chính sách và cách thức điều hành của Nhà nước, cũng như chính quyền các cấp theo hướng công khai, minh bạch, tạo ra môi trường thông thoáng, bình đẳng và cơ hôi mở rộng khả năng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp CNNT.
![]() |
2. Tác động tiêu cực
- Sản phẩm CNNT đối diện với sự cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường, sản phẩm CNNT của nước ta có thế bán ở nhiều quốc gia trên thế giới và ngược lại, sản phẩm của họ cũng có thể nhập khẩu vào thị trường Việt Nam . Nhìn chung, nhiều sản phẩm CNNT của nước ngoài sẽ có ưu thế trên thị trường nhờ hơn hẳn về chất lượng, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng đẹp, lại đáp ứng tốt các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, giá cả phù hợp, cộng thêm tâm lý của người Việt Nam vẫn đang "sính" hàng ngoại. Trong khi đó, sản phẩm CNNT của nước ta thua kém hẳn về chất lượng, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, giá cả lại cao. Hàng nông sản xuất khẩu của chúng ta có đến 90% được bán ra dưới dạng nông sản thô hoặc mới qua sơ chế. Chính vì vậy, sản phẩm CNNT Việt Nam đối diện với sự cạnh tranh quyết liệt ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Đây là thách thức lớn nhất của CNNT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đưa tới nguy cơ thu hẹp thị trường thế giới và cả ở thị trường trong nước làm cho CNNT mất chỗ đứng trong cơ cấu kinh tế nông thôn, kéo theo nhiều hệ lụy khác về mặt xã hội.
Hơn thế nữa, thị trường thế giới vẫn tồn tại nhiều hàng rào phi thuế quan áp dụng đối với nhiều mặt hàng, nhất là hàng nông sản qua chế biến. Trong khi đó, CNNT với quy mô nhỏ, phân tán, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật thấp, khâu tiếp thị kém nên nhiều sản phẩm CNNT không đạt chất lượng tiêu chuẩn trong nước chứ chưa nói đến tiêu chuẩn quốc tế, như đồ gỗ mỹ nghệ bị ngâm tẩm nhiều hóa chất; tôm, mực, cá bị dư lượng thuốc kháng sinh đã gây những hậu quả tiêu cực, làm mất uy tín sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chính vì vậy, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường ra bên ngoài là rất khó thực hiện, thậm chí còn có nguy cơ bị thu hẹp và mất thị trường bởi sự cạnh tranh khốc liệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Xuất hiện sự chênh lệch về đầu tư đối với CNNT giữa các vùng và giữa các ngành nghề.
Bản thân CNNT Việt Nam hiện nay có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng và giữa các ngành nghề. CNNT phát triển mạnh ở những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội khá phát triển, tập trung nhất là khu vực Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng. Đây là nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ở trình độ cao nhất so với cả nước, nhất là giao thông, điện, chợ đầu mối… Đây cũng là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu lớn, có chất lượng cho CNNT phát triển. Đồng thời, đây còn là nơi gần với hai trung tâm kinh tế của cả nước nên có nhiều điều kiện thuận lợi cho CNNT phát triển. Với những điều kiện thuận lợi trên, chắc chắn khu vực Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng sẽ là lựa chọn đầu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài vào CNNT. Điều này làm gia tăng sự phát triển không đồng đều của CNNT (vốn là không đều giữa các vùng, miền trên phạm vi cả nước).
Sự chênh lệch giữa các ngành nghề đối với CNNT còn biểu hiện giữa các ngành nghề của CNNT. Các nhà đầu tư sẽ tập trung vào các ngành nghề, sản phẩm mà họ đang có lợi thế về công nghệ và thị trường. Vì vậy, đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu sẽ là hướng lựa chọn chủ đạo của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện chúng ta đang có lợi thế về một số nông sản xuất khẩu như gạo, hạt điều, hồ tiêu, hàng thủy sản… với những thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Vì vậy, công nghệ chế biến những mặt hàng trên sẽ là những ngành có sự đầu tư nước ngoài lớn trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, làm gia tăng sự phát triển không đều giữa các ngành nghề của CNNT.
- Gia tăng sự phụ thuộc của CNNT vào sự biến động của kinh tế thế giới; CNNT phát triển thiếu ổn định và nhiều rủi ro
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam nói chung và CNNT nói riêng phải chịu tác động mạnh từ mọi biến động của kinh tế thế giới. Biến động kinh tế thế giới tác động trực tiếp vào CNNT trên những nội dung cơ bảnsau:
+ Sự thay đổi thường xuyên, thất thường của giá cả, không chỉ là giá của mặt hàng nông sản mà cả các mặt hàng khác như mây, tre đan, cói, chiếu… Với tư cách là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của CNNT Việt Nam, sự thay đổi thường xuyên, bất thường của giá cả trên thị trường quốc tế làm cho sản xuất CNNT thiếu ổn định, chứa đựng rủi ro, bất trắc. Hơn nữa, giá các loại vật tư, thiết bị kỹ thuật thiết yếu, nguyên vật liệu đầu vào thay đổi thường xuyên, bất thường cũng làm cho sản xuất CNNT thiếu ổn định.
+ Sự phụ thuộc của CNNT Việt Nam vào nền kinh tế thế giới còn biểu hiện rõ nét trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái như hiện nay. Nhu cầu sản phẩm CNNT trên thị trường thế giới bị giảm sút đáng kể, kéo theo sự thu hẹp thị trường sản phẩm CNNT. Cuối năm 2008, với tác động của suy thoái kinh tế thế giới, xuất khẩu sản phẩm CNNT ở nước ta đã giảm mạnh cả số lượng và giá trị. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của tháng 12/2008 giảm 34% so với tháng 7/2008. Khủng khoảng kinh tế thế giới đã thu hẹp thị trường thế giới; hàng hóa ứ đọng đã tác động đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của CNNT. Các doanh nghiệp CNNT, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phục vụ sản xuất buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất, sản xuất cầm chừng, thậm chí nhiều doanh nghiệp buộc phải dừng các hoạt động sản xuất - kinh doanh.
3. Một số đề xuất
Để phát huy những thành công và hạn chế những tác động tiêu cực của việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển CNNT và khắc phục những tồn tại của việc phát triển CNNT thời gian qua, cần giải quyết những vấn đề sau:
- Đối với Nhà nước
+ Quy hoạch phát triển CNNT
Quy hoạch phát triển CNNT để tránh sự chênh lệch về đầu tư giữa các vùng, giữa các ngành. Quy hoạch phải đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực sản xuất trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn lực của địa phương và sự bền vững của môi trường. Kết hợp giữa quy hoạch mới với quy hoạch sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trên địa bàn. Chú trọng phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp làng nghề. Mục tiêu của lập khu công nghiệp, khu công nghiệp nhỏ và vừa, cụm công nghiệp làng nghề là khắc phục ô nhiễm môi trường và tạo điều kiện để phát triển CNNT đủ sức cạnh tranh và hội nhập. Doanh nghiệp khi vào khu công nghiệp, khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề phải có sự đổi mới về công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, do đó tăng khả năng hội nhập.
+ Nhà nước cần có chính sách về đầu tư vốn, chuyển giao công nghệ, tư vấn khoa học - kỹ thuật, cung cấp thông tin, đào tạo nhân lực và một cơ chế tài chính, tín dụng thông thoáng. Đặc biệt là tạo điều kiện cho các cơ sở CNNT vay vốn với lãi suất ưu đãi để họ có cơ hội đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, vì đây là yếu tố hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và ngoài nước.
Xây dựng các chương trình đồng bộ cho các sản phẩm, các ngành trọng điểm phù hợp với chương trình phát triển nông nghiệp, bao gồm từ việc nghiên cứu, đầu tư cơ bản cho các vùng nguyên liệu, cơ sở hạ tầng, các cơ sở sơ chế, tinh chế sản phẩm cuối cùng cũng như hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện việc bảo hộ một cách hợp lý trước những hàng ngoại nhập để sản phẩm của CNNT có điều kiện phát triển. Tạo ra mối liên kết vững chắc trong sản xuất kinh doanh - mô hình liên kết "4 nhà" theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực công nghiệp chế biến.
+ Nhanh chóng sửa đổi, bổ sung và thể chế hóa các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là cam kết của WTO không chỉ ở lĩnh vực công nghiệp mà còn cả lĩnh vực nông nghiệp, các điều kiện kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm… Tất cả những cam kết trên đây tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến quá trình sản xuất - kinh doanh của CNNT ở nước ta hiện nay. Việc thể chế hóa những cam kết này không chỉ tạo ra môi trường thuận lợi theo hướng công khai, minh bạch cho CNNT phát triển, mà còn giúp các doanh nghiệp CNNT trong nước nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế để điều chỉnh quá trình sản xuất kinh doanh phù hợp với "sân chơi chung", tránh những thua thiệt, bất công trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đối với các cơ sở CNNT
+ Các cơ sở CNNT phải coi trọng việc đổi mới, nâng cao kỹ thuật - công nghệ sản xuất phù hợp với khả năng của mình. Tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường trong sản xuất, hướng đến thực hiện công nghệ sạch, áp dụng các công nghệ sản xuất sạch: công nghệ sử dụng tiết kiệm nguyên, vật liệu, năng lượng, nước và ít chất thải.
+ Nâng cao hiểu biết về kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế; đề cao trách nhiệm xã hội của mỗi doanh nghiệp về sản phẩm, về môi trường… trong quá trình sản xuất - kinh doanh của mình. Chủ động mở rộng liên doanh, liên kết, nhất là trong bối cảnh có sự gia tăng đầu tư từ bên ngoài vào để mở rộng, hiện đại hóa quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.









