Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 04/10/2010 18:02 (GMT+7)

Tác động của công nghiệp đối với sự phát triển bền vững về xã hội ở Việt Nam

I. Những tác động chủ yếu của công nghiệp đối với sự phát triển bền vững về xã hội ở việt Nam

1. Những tác động tích cực

- Công nghiệp phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - nền tảng vật chất gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay, nhất là những năm gần đây sản xuất công nghiệp Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Sự phát triển đó không chỉ thể hiện ở việc đa dạng hóa các ngành sản xuất công nghiệp, xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn cùng với công nghệ hiện đại hướng đến xuất khẩu, mà còn thể hiện ở tốc độ tăng của giá trị sản xuất công nghiệp. Nếu như năm 2002, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp chỉ đạt 14,8%/năm thì đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng của ngành này là 17,1% và đạt 14,6% vào năm 2008. Theo đó, đóng góp của công nghiệp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế đạt khoảng 40 - 41%, trong khi ngành nông nghiệp chỉ đóng góp trên 20% và dịch vụ khoảng 38 - 39%.

Như vậy, với vai trò, vị thế rất quan trọng (vị thế số một của ngành công nghiệp trong tăng trưởng chung của nền kinh tế Việt Nam hiện nay), phát triển ngành công nghiệp chính là động lực để gia tăng thu nhập và cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

- Công nghiệp phát triển tạo nhiều việc làm, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế

Công nghiệp phát triển đa dạng, phong phú nhiều ngành nghề, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của các KCN, KCX đã tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Chỉ tính riêng số lao động của 194 KCN, KCX ra đời trong khoảng 17 năm trở lại đây (1991-2008), có khoảng vài triệu lao động đang làm việc trực tiếp và gián tiếp, lao động vệ tinh tham gia gia công chế biến, tạo sản phẩm. Bên cạnh đó còn có một số lượng lớn lao động hoạt động trong các ngành nghề phi nông nghiệp, như dịch vụ ăn uống, buôn bán nhỏ... phục vụ cho đời sống sinh hoạt do đòi hỏi tất yếu của KCN, KCX. Đặc biệt, các vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam), thu hút số lượng lao động rất lớn, đáp ứng nhu cầu lao động cho xã hội, qua đó góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

- Công nghiệp phát triển, nhất là phát triển các KCN, KCX thúc đẩy sự ra đời và hình thành thị trường lao động theo quan hệ cung - cầu lao động

Việc hình thành và phát triển các KCN, KCX đòi hỏi một đội ngũ lao động có tay nghề, có chuyên môn kỹ thuật phù hợp để sản xuất ra sản phẩm đạt trình độ khu vực và thế giới. Đây chính là tiền đề, điều kiện để hình thành thị trường lao động đáp ứng nhu cầu phát triển của các KCN, KCX.

Toàn bộ nền kinh tế nước ta hiện nay có khoảng trên 11 triệu lao động làm công ăn lương, trong đó có tới 80% số lao động tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, nơi ngành công nghiệp phát triển đa dạng, phong phú, với nhiều loại hình doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp trong các KCN, KCX phần lớn có chất lượng cao, nhiều sản phẩm xuất khẩu. Để có việc làm thường xuyên và ổn định, người lao động phải không ngừng nâng cao về tay nghề, chuyên môn kỹ thuật. Mặt khác, đối với chủ sở hữu doanh nghiệp phải có nhiều biện pháp, cơ chế đãi ngộ cạnh tranh để giữ người lao động làm việc lâu dài cho doanh nghiệp.

Như vậy, phát triển công nghiệp, hình thành các cụm công nghiệp tập trung đã tạo ra động lực để hình thành và phát triển thị trường lao động.

- Phát triển công nghiệp, đặc biệt là phát triển các KCN, KCX có tính đồng bộ và hiện đại sẽ hình thành phương thức quản lý, kiểm soát, sử dụng tiết kiệm đất đai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu lãnh thổ nhanh chóng và có hiệu quả

Thực hiện chủ trương CNH, HĐH đất nước, trong nhiều năm qua, nước ta đã đẩy mạnh phát triển công nghiệp nói chung, phát triển các KCN, KCX nói riêng. Trong tiến trình phát triển công nghiệp cũng như các KCN, KCX đòi hỏi phải có thiết kế, quy hoạch và kế hoạch phát triển. Công việc này không chỉ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cầu kinh tế vùng - lãnh thổ mà còn hình thành phương thức quản lý đất đai và kiểm soát quỹ đất trên phạm vi cả nước.

- Công nghiệp phát triển tạo ra động lực lan tỏa, biến những vùng nông thôn vốn lạc hậu, chậm phát triển thành những vùng đô thị mới phát triển năng động, hiệu quả; thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, khu vực kinh tế

Về bản chất, phát triển công nghiệp, cụm công nghiệp tạo ra động lực có sức lan tỏa đối với sự phát triển của ngành, vùng - lãnh thổ và thành phần kinh tế. Thông qua sự phát triển của công nghiệp, KCN, KCX, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật được hình thành, ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ và có chất lượng, tạo đà cho các ngành kinh tế khác, các vùng kinh tế chuyển động và phát triền. Chẳng hạn, việc phát triển công nghiệp, KCN, KCX sẽ hình thành những tuyến đường giao thông huyết mạch, những cảng biển; hình thành mạng lưới điện, mạng lưới thông tin, các trường kỹ thuật... Sự phát triển đó đã thúc đẩy ngành nông nghiệp, dịch vụ phát triển phục vụ cho sự ra đời và phát triển của ngành công nghiệp, của các KCN, KCX; thúc đẩy nông thôn (khu vực kinh tế chậm phát triển, nghèo nàn, lạc hậu bởi hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật kém) phát triển, đa dạng ngành nghề, giảm lao động cơ bắp trong sản xuất nông nghiệp và ngành nghề phi nông nghiệp, nâng cao năngsuất chất lượng và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Theo tính toán của các nhà khoa học, hiện nay ở nước ta cứ 1 héc ta đất nông nghiệp, sẽ thu hút tối đa khoảng 10-15 lao động làm việc, với giá trị gia tăng thấp. Nhưng, nếu chuyển sang phát triển công nghiệp nói chung, KCN, KCX nói riêng sẽ tạo ra hàng trăm chỗ làm việc có giá trị gia tăng cao hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Trung bình một KCN, KCX lấy đi khoảng 100 - 150 héc ta đất, nếu được lấp đầy sẽ thu hút khoảng 15.000 - 18.000 lao động trực tiếp và hàng vạn lao động vệ tinh. Tính thuần túy về kinh tế từ việc thu hồi đất để phát triển KCN, KCX, lợi ích kinh tế đó là rất lớn.

Như vậy, việc phát triển công nghiệp nói chung, KCN, KCX nói riêng đã tạo động lực lan tỏa, thúc đẩy nền kinh tế phát triển với năng suất cao hơn, giá trị sản xuất của các ngành nhờ đó mà tăng nhanh. Đồng thời không ngừng tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân, thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng đồng bằng và vùng miền núi...

2. Những tác động tiêu cực và nguyên nhân

a) Những tác động tiêu cực

- Công nghiệp là ngành kinh tế gắn chặt chẽ với thị trường. Mọi sự biến động không thuận lợi trong tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới sẽ ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến việc làm và thu nhập của người lao động.

Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm công nghiệp sản xuất ra để bán. Trong điều kiện mở cửa và chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, sản phẩm công nghiệp gắn chặt chẽ với thị trường trong nước, khu vực và toàn thế giới. Những biến động không thuận lợi trên thị trường đều ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp. Thời gian gần đây, thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của Việt Nam bị ảnh hưởng lớn, năng lực sản xuất bị thu hẹp, thậm chí có những doanh nghiệp phá sản, nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc làm bởi hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới.

Theo thống kê chưa đầy đủ, ước tính có khoảnh hàng chục vạn công nhân trong các KCN, KCX trên phạm vi cả nước bị mất việc hoặc việc làm không đầy đủ và cầm chừng dẫn đến thu nhập giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đó chính là mầm mống của sự mất ổn định, hình thành điểm nóng chính trị, biểu hiện cụ thể là các cuộc đình công, bãi công của công nhân dòi tăng lương, giảm giờ làm, được quan tâm nhiều hơn về môi trường và điều kiện sống, liên tục xảy ra.

Ở nước ta hiện nay, tiền công, tiền lương trong ngành công nghiệp nói chung, trong KCN, KCX nói riêng là khá thấp, ngoại trừ những ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thị trường phát triển, người lao động có mức thu nhập khá. Do vậy, người lao động không có nhiều cơ hội tích lũy, nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình. Lao động của công nhân ở các KCN, KCX thường mang tính phổ thông, trên các dây chuyền công nghệ lạc hậu... trong khi mục đích của chủ đầu tư nước ngoài là lợi nhuận, tiết kiệm chi phí tối đa dẫn đến thu nhập bình quân/tháng của mỗi công nhân rất thấp. Chẳng hạn, ở Bắc Ninh, công nhân có thu nhập khoảng 1 - 1,2 triệu đồng/ngườ/tháng. Đây là mức lương được Nhà nước cho phép thực hiện tại các KCN, KCX. Trong khi mức lương và phụ cấp trung bình của doanh nghiệp trong nước hiện nay khoảng 1,5 - 2 triệu đồng/người/tháng, cao hơn mức thu nhập của công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 0,8 - l triệu đồng/ người/tháng.

Phát triển KCN, KCX chưa tuân thủ quy hoạch hoặc quy hoạch chất lượng thấp, không đồng bộ và không theo lộ trình phát triển nên dẫn đến tác động ngược, không những không thể tạo động lực và sức lan tỏa như vốn có của ngành công nghiệp mà còn ảnh hường tiêu cực đến phát triển kinh tế, chính trị và xã hội ở khu vực nông thôn.

Phát triển KCN, KCX là tất yếu trong tiến trình phát triển nền kinh tế hiện đại, việc dành quỹ đất để phục vụ mục tiêu đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước là rất cần thiết. Tuy nhiên, ở nước ta trong thời gian qua, phát triển công nghiệp nói chung, phát triển KCN, KCX và đô thị hóa nói riêng đã lấy đi một phần rất lớn đất đai chuyên dụng trong nông nghiệp. Theo thống kê sơ bộ, diện tích đất trồng lúa được chuyển sang phát triển KCX, KCN vào khoảng 10.000 héc ta, chiếm khoảng 20% tổng diện tích đất tự nhiên của KCN. Dự báo đến năm 2015 diện tích đất trồng lúa chuyển sang phát triển khoảng 18.000 - 20.000 héc ta, chiếm 0,5% diện tích đất trồng lúa trong cả nước. Nếu thực hiện quy hoạch này trên diện tích đất trồng lúa một vụ, bấp bênh và cho năng suất thấp là hợp lý. Bởi vì, một héc ta đất trồng lúa, tính đơn thuần về mặt giá trị sẽ thu được trung bình khoảng 900 USD/hécta/năm, thấp hơn nhiều so với cho thuê đất trong KICN: 1,6 triệu USD/hécta/năm nếu như KCN đó lấp đầy diện tích đất cho thuê. Tuy nhiên, giải pháp này là con dao hai lưỡi. Bởi vì các nhà đầu tư nước ngoài luôn lựa chọn những vùng kinh tế thuận lợi về kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội và kỹ thuật. Những vùng, khu vực thuận lợi đó thường là ở vùng đồng bằng, đất đai phì nhiêu, canh tác 2 vụ lúa cao sản. Trên thực tế, tổ chức không gian lãnh thổ ở bất cứ vùng nào, quốc gia, khu vực nào không chỉ hạch toán về mặt giá trị, về mặt kinh tế mà còn tính tới các vấn đề về xã hội, môi trường sống...

Thời gian qua, chúng ta đã tiến hành xây dựng quá ồ ạt các KCN, KCX trên đất lúa 2 vụ; nhiều khu tỷ lệ lấp đầy diện tích cho thuê mặt bằng thấp, có những dự án chưa triển khai hoặc triển khai trên giấy, trong khi nông dân mất đất hoặc bị thu hồi phần lớn đất sản xuất, phần còn lại không đủ để sản xuất hàng hóa, thậm chí không thể tiếp tục sản xuất như cũ do kết cấu hạ tầng sản xuất nông nghiệp (thủy lợi, bảo vệ thực vật...) bị phá vỡ. Nhà nước, doanh nghiệp thu hồi đất nông nghiệp nhưng không hoặc chưa thực sự chú ý đến việc đầu tư trở lại khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực trạng đó đã tác động rất tiêu cực đến mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, chính trị ở khu vực nông thôn, thể hiện rõ nhất ở chỗ:

+ Năng lực nội sinh trong phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn, nhất là ở những vùng trồng lúa bị giảm sút rất đáng kể. Ở khu vực nông thôn, đa số hộ lấy việc trồng lúa làm thu nhập chính. Tuy nhiên, trong gần 20 năm phát triển KCN, KCX đã lấy đi một diện tích đất nông nghiệp khá lớn, chủ yếu là đất lúa nên sản lượng lúa của nhiều vùng giảm đáng kể, nhất là ở các xã thuần nông, thu nhập của nông dân ở nhiều nơi bị giảm sút. Mọi chi tiêu của nhiều hộ nông dân chỉ trông chờ vào hạt lúa (được mùa lúa sẽ trang trải được mọi chi phí trong hoạt động sản xuất và đời sống). Sản lượng lúa gạo suy giảm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của bản thân người nông dân mà còn ảnh hưởng tới an ninh lương thực trên phạm vi vùng, lãnh thổ và quốc gia.

+ Gia tăng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nhiều vùng nông thôn. Ngành nghề chính của đại bộ phận nông dân là trồng trọt, chủ yếu là trồng lúa. Khi diện tích đất trồng lúa giảm hoặc bị thu hồi hoàn toàn thì nông dân sẽ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm, cuộc sống khó khăn, có những hộ nông dân bị rơi vào cảnh bần hàn, túng thiếu.

+ Nảy sinh những vấn đề bức xúc trong dân cư, nhất là ở những vùng nông thôn mất đất tình trạng khiếu kiện đất đai với số lượng lớn, khiếu kiện đông người và dài ngày, trượt cấp không có chiều hướng suy giảm làm cho môi trường chính trị - xã hội ở một số nơi mất ổn định.

+ Di dân tự do không có tổ chức từ nông thôn ra thành thị, làm quá tải hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, nảy sinh nhiều bất cập. Ở một số vùng nông thôn, diện tích đất trồng lúa suy giảm nhanh chóng, người nông dân không có việc làm hoặc việc làm không đầy đủ, thanh niên và những người lao động trụ cột của gia đình phải đi tìm việc làm, gia tăng thu nhập cho gia đình ở các đô thị. Thực trạng đó một mặt, lăm cho khu vực nông thôn vốn dĩ thiếu nguồn lao động có chất lượng (sức khỏe, chuyên môn nghiệp vụ, tri thức...) càng rơi vào tình trạng trầm trọng hơn. Ở một số nơi chỉ còn lại người già và trẻ em, việc chăm sóc người già, nhất là trẻ em đang trong độ tuổi đi học không đầy đủ, tiềm ẩn nguy cơ trong phát triển của thế hệ tương lai. Mặt khác, không ít người lao động khi ly hương tìm việc làm đang là người tốt, khi trở về mang theo các tệ nạn xã hội, gây bức bối cho gia đình và chính quyền địa phương.

+ Xáo trộn môi trường sống của dân cư khó kiểm soát và quản lý về mặt xã hội. KCN, KCX vừa là khu vực tập trung hoạt động kinh tế, kỹ thuật vừa là khu vực tập trung hoạt động xã hội. Tuy vậy, KCN, KCX không phải là đơn vị hành chính, trong khi lại có ranh giới riêng. Một KCN, KCX được quy hoạch có thể nằm trên nhiều địa giới hành chính cho nên rất phức tạp trong tổ chức, quản lý, phối kết hợp hoạt động.

- Phát triển KCN, KCX không được kiểm soát chặt chẽ về chất thải, nhất là chất thải rắn ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng dân cư.

Hiện nay, ở nhiều vùng phát triển công nghiệp, chất thải rắn khống được kiểm soát chặt chẽ đã tràn ra ngoài khu vực dân cư, gây ô nhiễm môi trưởng đất, môi trường nước, môi trường không khí; phát sinh những căn bệnh nguy hiểm đối với con người. Theo tính toán của Bộ Y tế, những năm gần đây các bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hóa tăng nhanh, đặc biệt là bệnh ung thư. Ở một số vùng phát triển KCN, KCX, tỷ lệ tử vong do ung thư tăng nên nhanh. Chẳng hạn, ở Thạch Sơn (Phú Thọ), Đông Lỗ (Hà Nội), Thổ Vị (Thanh Hóa), Kim Thảnh (Nghệ An), Khánh Sơn (Đà Nẵng), Đại An (Quảng Nam) tỷ lệ người chết do ung thư tăng đột biến.

b) Nguyên nhân chủ yếu

- Do chưa nhận thức thấu đáo về vị trí, vai trò động lực kép của công nghiệp đối với phát triển kinh tế, phát triển xã hội và gìn giữ bảo vệ môi trường, thúc đẩy xã hội phát triển ngày càng văn minh, hiện đại.

- Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp nói chung, phát triển KCN, KCX nói riêng chưa tốt.

- Cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp nói chung, phát triển KCN, KCX nói riêng chưa theo kịp tiến trình phát triển của xã hội.

- Năng lực xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống luật pháp còn hạn chế.

- Khả năng vươn lên làm chủ cuộc sống của đại bộ phận dân cư, nhất là dân cư nông thôn còn thấp.

II. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp bền vững về xã hội ở Việt Nam

1. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp, các bộ ngành và địa phương về vị trí, vai trò động lực, sức lan tỏa của ngành công nghiệp trong tiến trình đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước cũng như hội nhập kinh tế quốc tế

Trên thực tế, trong một thời gian dài, các cấp, các ngành mới chỉ quán triệt và nhận thức rõ vị trí, vai trò của ngành công nghiệp - với tư cách là đầu tàu là động lực trong phát triển kinh tế. Nhận thức đó đã làm mờ nhạt mục tiêu ổn định chính trị - xã hội từ chính phát triển công nghiệp, nhất là phát triển các KCN, KCX. Do chưa nắm bắt và hiểu thấu đáo những tác động của phát triển KCN, KCX về mặt xã hội, nhiều địa phương khi được phân cấp cấp giấy phép đầu tư đã không ngần ngại trải thảm đỏ mời gọi nhà đầu tư đến với địa phương mình, sẵn sàng ưu đãi về thuế, về môi trường đầu tư, đặc biệt là về đất đai (không ngần ngại cắt những mảnh đất trồng lúa mà nghìn đời cha ông cải tạo mới có...).

Bởi vậy, cần nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là cán bộ địa phương thấy rõ những lợi ích kép từ việc phát triển KCN, KCX. Trong đó, phải kết hợp hài hòa giữa 3 mặt trong tổ chức không gian lãnh thổ khi phát triển khu công nghiệp, đó là: Lợi ích kinh tế gắn kết với lợi ích xã hội và lợi ích về môi trường sinh thái. Nếu quá nhấn mạnh về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế không chú ý những lợi ích kép về xã hội, môi trường thì dù có tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ không có phát triển. Những giá trị vật chất do phát triển khu công nghiệp mang lại không thể bù đắp nổi những lỗ hổng về mặt xã hội và môi trường.

Thông qua nhiều biện pháp: Đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, cán bộ đầu ngành ở địa phương; phổ biến kiến thức; thực hiện truyền thông đa phương tiện... để nâng cao nhận thức của các cấp các ngành và từng người dân về lợi ích kép từ chính phát triển công nghiệp nói chung, phát triển KCN, KCX nói riêng trong quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước cũng như hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Đổi mới và hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp theo hướng phát triển bền vững, lấy con người làm trung tâm và động lực của phát triển công nghiệp

Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp theo hướng phát triển bền vững đòi hỏi phải có chiến lược phát triển tầm trung hạn và dài hạn, gắn với các đối sách phát triển ngắn hạn phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, ngành, vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế.

- Trên cơ sở tồng kết thực tiễn phát triển công nghiệp nói chung, phát triển KCN, KCX nói riêng, tổ chức lấy ý kiến sâu rộng, nhất là ý kiến của các nhà chuyên môn, mang tính liên ngành để xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp theo lộ trình, đảm bảo chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong ngành công nghiệp. Cần xác lập rõ các ngành mũi nhọn, ngành sử dụng công nghệ cao và nguồn nhân lực cao; các ngành công nghiệp có lợi thế phát triển hướng tới thị trường trong nước và ngoài nước, sử dụng nguồn lao động dồi dào trong nước.

Trong quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, nhất là phát triển KCN, KCX phải gắn kết với các mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.

3. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách phát triền công nghiệp bền vững đảm bảo đa mục tiêu: kinh tế xã hội và môi trường, tạo sự đồng thuận của xã hội trong phát triển công nghiệp, nhất là phát triển KCN, KCX

- Đổi mới chính sách đất đai phục vụ phát triển công nghiệp, nhất là phát triển KCX, KCN theo hướng sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

- Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, hướng về xuất khẩu; chính sách tài chính, tín dụng rộng mở, thông thoáng và ưu đãi đối với những phân ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, đảm bảo sử dụng không gian hiệu quả, có sản phẩm xuất khẩu thông qua các hình thức gián tiếp, đảm bảo cho người lao động được hưởng lợi trực tiếp từ những ưu đãi do chính sách tài chính, tín dụng đem lại.

- Đổi mới chính sách tiền lương, tiền công, đảm bảo không ngừng nâng cao thu nhập, mức sống của công nhân công nghiệp.

- Đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực; thực hiện tốt chiến lược xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời; nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất - kinh doanh trong công nghiệp.

Đặc biệt, các chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước phải hướng tới:

Một là, đối với phát triển sản xuất ngành công nghiệp nói chung.

- Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ đáp ứng yêu cầu sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng khu vực và thế giới.

- Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào trong phát triển công nghiệp.

- Gia tăng tiềm lực khoa học - công nghệ, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp.

- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển công nghiệp.

Hai là, đối với phát triển xã hội

- Đảm bảo tăng trưởng, phát triển công nghiệp gắn với sự phát triển văn hóa, xã hội của của các vùng, miền.

- Phát triển hệ thống các trường đào tạo nghề, đẩy mạnh đào tạo nghề có chất lượng cho người dân, nhất là người dân nông thôn có đất bị thu hồi nhằm tạo lập việc làm mới đảm bảo cuộc sống cho người lao động.

- Hình thành các đô thị công nghiệp, vùng sản xuất công nghiệp trong đó phát huy quyền làm chủ người dân, nhất là những nông dân bị thu hồi quyền sử dụng đất canh tác được tham gia sản xuất và xây dựng quê hương mình.

- Tạo lập và phát triển không gian kinh tế gắn liền với không gian văn hóa, môi trường xã hội hiện đại ở những vùng kinh tế, khu vực kinh tế sử dụng đất chuyên dụng trong sản xuất nông nghiệp sang phát triển KCN, KCX.

4. Nâng cao chất lượng trong xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống luật và văn bản dưới luật có liên quan trực tiếp đến phát triển công nghiệp bền vững

Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới và không ngừng hoàn thiện Luật Đầu tư, trong đó quy định rõ mục đích, yêu cầu, các điều khoản thực hiện nhằm đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển ngành công nghiệp gắn với phát triển xã hội, nhất là về đời sống, thu nhập của người công nhân.

5. Không ngừng nâng cao thu nhập nói riêng, chất 'lượng cuộc sống nói chung của các tầng lớp dân cư, nhất là những cư dân bị thu hồi đất

Phát triển công nghiệp, KCN, KCX phải gắn với chương trình an sinh xã hội và đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với người nông dân bị mất đất. Chú trọng đến công tác tổ chức quản lý hành chính khu dân cư ngoài hàng rào KCN, KCX; hướng dẫn nông dân thực hiện chuyển đối nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp. Quá trình này đòi hỏi phải thực hiện hiệu quả, giám sát chặt chẽ, sát sao để định hướng người nông dân mất đất mà không bị bần cùng hóa.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.