Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 21/02/2012 19:34 (GMT+7)

Quản lý tài nguyên nước tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: một số phân tích và nhận định từ hiện tượng Công ty Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải

1. Lời nói đầu

Trong sự phát triển của con người, nước đóng một vai trò rất quan trọng và không thể thiếu. Đây là nguồn tài nguyên không chỉ phục vụ trực tiếp cho nhu cầu đời sống hằng ngày của con người như ăn uống, nấu ăn, tắm rửa; mà trong giai đoạn hiện nay, nước có ý nghĩa rất lớn như là một thành phần tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Mặt khắc, đứng về mặt môi trường tự nhiên thì nước là nơi sinh sống của các loài cá cũng như các loại hải sản khác nhau. Điều này là đúng với hầu hết các nơi trên thế giới. Nguồn tài nguyên này đã không ít lần trở thành nguyên nhân của không ít vụ tranh chấp và xung đột ở nhiều nơi. Điều này đã cho thấy tầm quan trọng hét sức to lớn của nguồn tài nguyên nước. Đối với Việt Nam , mức độ quan trọng của nguồn tài nguyên nước không suy giảm mặc dù nước ta có được hệ thống sông ngòi rất phong phú và do đó, nguồn tài nguyên nước là dồi dào. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, nhiều hành động có ảnh hưởng tiêu cực đối với nguồn tài nguyên quý giá này đã xảy ra và gây ra những tác hại lớn. Điều này đặt ra yêu cầu về công tác quản lý nguồn tài nguyên nước cần được nghiêm túc và hiệu quả hơn. Bài viết này sẽ thực hiện việc phân tích và nhận định về công tác quản lý tài nguyên nước tại Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN) qua hiện tượng Công ty Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải như là một trường hợp điển hình. Lý do chính là việc giải quyết và quản lý nguồn tài nguyên nước dường như đã bộc lộ nhiều vấn đề ở nhiều cấp và ở nhiều khía cạnh như tính hiệu lực và hiệu quả của các quy định pháp luật, sự phối hợp trong công tác quản lý tài nguyên nước giữa các địa phương, công tác quản lý nguồn tài nguyên nước có sự tham gia của người dân và cộng đồng… Từ việc phân tích này, bài viết mong muốn góp một số vấn đề mang tính lý thuyết và thực tiễn trong việc quản lý nguồn tài nguyên nước tại VKTTĐPN nói riêng và Việt Nam nói chung.

2. Một số vấn đề lý thuyết về quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên nước

Quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên nước (IWRM) bắt đầu từ chính việc quản lý tài nguyên nước, trong đó sử dụng các biện pháp công trình và phi công trình để kiểm soát hệ thống tài nguyên nước tự nhiên và nhân tạo nhằm mục tiêu khai thác tói ưu nguồn tài nguyên nước đó. Các công cụ kiểm soát nguồn nước và các yếu tố môi trường cùng phối hợp trong hệ thống tài nguyên nước để thực hiện các mục tiêu quản lý nguồn nước.

Tổ chức hợp tác về nguồn nước toàn cầu định nghĩa về quản lý tổng hợp tài nguyên nước như sau: “Quản lý tổng hợp tài nguyên nước là một quá trình xúc tiến việc phối hợp quản lý và phát triển các nguồn nước, đất đai và các nguồn lực liên quan nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội mọt cách cân bằng mà không phương hại đến tính bền vững của các hệ thống sinh thái trọng yếu”.

Bên cạnh đó vẫn còn nhiều tiêu chuẩn khác của IWRM liên quan đến khía cạnh xã hội. Điều này là tất yếu vì chính con người và những hành động của họ quyết định nguồn nước có được sử dụng hợp lý hay không. Việc này có thể đạt được thông qua:

- Luôn có sự kết hợp giữa công tác quản lý nguồn nước và những người ra chính sách ở tất cả các cấp độ - toàn cầu, quốc gia, địa phương, cộng đồng.

- Bảo đảm tất cả các nhóm lợi ích được tham gia vào tiến trình ra quyết định. Khi đó tất cả các tranh chấp quyền lợi sẽ được đưa ra thảo luận nhằm đạt được giải pháp tối ưu. Việc này đòi hỏi sự nỗ lực hoàn thiện kiến thức và kỹ năng của các nhóm lọi ích để tham gia tốt nhất vào tiến trình ra quyết định.

- Đề ra kế hoạch khai thác trên lưu vực, các thể chế chính sách đánh giá và dự kiến những ảnh hưởng có thể xảy ra đối với nguồn tài nguyên nước. Cần phải chú ý rằng nhẵng quyết định trong nhiều lĩnh vực như sản xuất nông nghiệp, giao thông, năng lượng, người nhập cư… đều có những ảnh hưởng đến nguồn nước.

- Chuẩn bị đầy đủ những thông tin có liên quan đến hiện trạng của lưu vực như các điều kiện lý sinh, kinh tế, xã hội, sinh thái… nhằm hỗ trợ tốt nhất cho công tác ra quyết định.

- Tác động đến người sử dụng nước để họ hiểu được việc tiêu thụ nước cần dựa trên giá trị thật sự của nguồn nước, đồng thời định ra nhu cầu khai thác dài hạn nguồn nước.

3. Các hành động và vi phạm của Vedan

* Tái phạm nhiều lần

Từ khi bắt đầu đi vào hoạt động năm 1994 đến nay, Công ty Vedan liên tiếp có nhiều sai phạm gây ô nhiễm môi trường: Năm 1994, Công ty thải hóa chất ô nhiễm làm thủy sản chết hàng loạt trên sông Thị Vải. Tháng 2 năm 1998, tại Hà Nội đã diễn ra cuộc hội thảo do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức để báo cáo về hiện trạng sông Thị Vải và kết quả nghiên cứu đã xác nhận so với năm 1990-1992, chất lượng sông Thị Vải đã có dấu hiệu bị ô nhiễm rõ rệt do các hoạt động công nghiệp phát triển mạnh ở lưu vực trong đó có Công ty Vedan cùng nhiều công ty khác. Năm 2005, Vedan mới đồng ý đền bù với danh nghĩa hỗ trợ nông dân nuôi trồng thủy sản với số tiền 15 tỷ đồng; năm 2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hộp với UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai qua kiểm tra đã phát hiện Vedan có hành vi xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến 5.600 lần…

* Hệ thống “tinh vi”

Việc Công ty Vedan xả nước thải chưa qua xử lý theo quy định và có chứa rấ nhiều chất độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống bên ngoài, nhất là dòng sông Thị Vải, vốn dĩ không còn xa lạ gì với công luận và dư luận người dân quanh khu vực này, từ hàng chục năm về trước. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, cụ thể là những năm 1994-1995, Công ty Vedan đã lắp đặt một “hệ thống xử lý” có chủ ý” hệ thống bơm nhiều tầng nấc có các van đóng-mở linh hoạt và dẫn ra một đường ống “bí mật” được cắm sâu trong lòng đất trực chỉ ra sông Thị Vải.

Chỉ cần một cái lắc tay nhẹ nhàng, toàn bộ nước thải, lẽ ra đi vào hệ thống vận hành, sẽ đổ thẳng xuống dòng sông vô tội, mà bằng mắt thường khó mà phát hiện được. Theo dư luận người dân quanh khu vực, hầu như hệ thống này chỉ làm việc vào quá nửa khuya, lúc mọi người đã yên giấc. Vào thời điểm đó, Công ty Vedan đã buộc phải bồi thường hàng chục tỷ đồng cho người dân, khi bị tố cáo là làm ô nhiễm sông Thị Vải làm chết cá tôm của các hộ dân, ngư dân địa phương.

Cách nay hơn 3 năm, giữa năm 2006, Công ty Vedan lại dính vào scandal, khi Thanh tra Cục Bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) trong lần kiểm tra hàng loạt các doanh nghiệp đóng trên địa bàn được cho là đã xả thải xuống sông Thị Vải, đã lại phát hiện Vedan, dù có xây dựng 3 hệ thống xử lý và xả thải “hiện đại”, nhưng tất cả là nhằm đối phó, đúng hơn là ngụy trang với cơ quan chức năng Trung ương và địa phương. Theo nhận định của đoàn thanh tra, hệ thống này không đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết cho việc xử lý kỹ thuật, nếu không nói là làm cho có.

* Dòng sông chết

Không chỉ sông Thị Vải và toàn tuyến lưu vực sông Đồng Nai, từ lâu đã ddwwocj báo động là ô nhiễm do nước thải các nhà máy sản xuất của 56 khu công nghiệp và khu chế xuất đang hoạt động. Theo kết quả điều tra và khảo sát của Cục Bảo vệ môi trường, nước sông Đồng Nai, đoạn từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại, đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng, đáng chú ý đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5942-1995. Tại đây, chất rắn lơ lửng thường vượt tiêu chuẩn 3-9 lần, giá trị COD vượt 1,8-2,8 lần, giá trị DO thấp dưới giới hạn cho phép. Trong khi đó, chất lượng nước sông của khu vực hạ lưu, giá trị DO giảm xuống rất thấp, SS vượt từ 2-2,5 lần TCVN 5942-1995 (loại B). Vùng này cũng đã bị nhiễm mặn nghiêm trọng, nước sông khu vực này không thể sử dụng cho sinh hoạt và tưới tiêu. Một kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường TP. HCM gần đây cũng cho những con số tương tự về mức độ ô nhiễm của hệ thống sông Sài Gòn (thuộc lưu vực Đồng Nai). Cũng theo kết quả khảo sát này, các sông khác trong toàn lưu vực, chất lượng nước cũng đang bị suy giảm trầm trọng. Ví dụ, chất lượng nước ở mọt số sông nhánh như sông Bé, Đa Nhim-Đa Dung phần hạ lưu cũng đang diễn tiến theo chiều hướng xấu. Sông Vàm Cỏ đã bị ô nhiễm hữu cơ.

Ô nhiễm nhất trong toàn bộ lưu vực đó là sông Thị Vải, trong đó có một đoạn sông dài trên 10km gọi là “dòng sông chết”. Đây là đoạn sông từ sau khu vực hợp lưu Suối Cả-sông Thị Vải khoảng 2km đến khu công nghiệp Mỹ Xuân. Tại đây, nước bị ô nhiễm hữu cơ trầm trọng, có màu nâu đen và bốc mùi hôi thối cả ngày lẫn đêm, cả khi thủy triều. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, giá trị DO ở đây thường xuyên dưới 0,5mg/l, có nơi chỉ 0,04mg/l. Với giá trị DO gần như bằng 0 như vậy, các loài sinh vật hầu như không còn khả năng sinh sống, các nhà khoa học đã gọi đoạn sông này là “đặc sệt sự chết”!

4. Phân tích diễn biến phản ứng của các chủ thể liên quan đến công tác quản lý tài nguyên nước

i. Của Hội Nông dân và người dân

Khi các cơ quan chức năng phát hiện Vedan là thủ phạm gây ô nhiễm sông Thị Vải, người dân làm đơn mang lên nộp trên xã. Tuy nhiên, xã trả lại đơn để người dân tự gởi đến Vedan thì người dân cảm thấy rất khó khăn và không hài lòng. Đây là hướng giải quyết khá không có trách nhiệm của chính quyền cơ sở, vì người dân rất khó liên hệ với Công ty Vedan một cách trực tiếp. Nhiều người dân cũng cho rằng trước dây gia đinh sống bằng nghề chài lưới trên sông Thị Vải, mỗi ngày thu nhập được 50.000-70.000 đồng, nhưng kể từ khi Vedan xả nước thải ô nhiễm ra sông Thị Vải đến nay khiến cho nguồn lợi cá, tôm bị hủy diệt, các gia đình trở nên khó khăn. Còn người dân xã Phước An, huyện Nhơn Trạch cho rằng, du năm 1995, Vedan có hỗ trợ một phần thiệt hại cho bà con ngư dân nhưng rồi vẫn tiếp tục xả những chất độ hại xuống sông Thị Vải gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng nước. Nhiều người đã phải bỏ nghề chài lưới, chuyển sang nghề khác tìm kế mưu sinh. Lúc này, người dân chỉ mong chính quyền giúp đỡ yêu cầu Vedan bồi thường để mong lấy lại phần nào thiệt hại.

Một cán bộ phụ trách nông nghiệp xã Long Thọ cho biết, người dân làm đơn gửi đến UBND xã với hy vọng được giúp đỡ đòi Vedan bồi thường thiệt hại. Xã đã nhận hơn 950 đơn của người dân và chờ chủ trương của huyện, tỉnh. Nhưng với quyết định của tỉnh thì người dân phải nhận lại đơn để gửi trực tiếp đến Vedan. Điều này làm người dân hết sức bất bình, yêu cầu xã giải thích, nhưng về phía xã vẫn chưa nhận được hướng dẫn mới của huyện nên cũng không biết giải thích như thế nào với người dân… Ước tính, đã có hơn 2.600 đơn của nông dân 4 xã ở 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai gửi đến chính quyền địa phương nhờ giúp đỡ đòi bồi thường thiệt hại ô nhiễm do Vedan gây ra. Nhưng việc UBND tỉnh Đồng Nai có những quyết định “tiền hậu bất nhất” nên đã đẩy người dân vào một tình thế khó.

Vào ngày 12/9/2008, Cảnh sát môi trường phát hiện Vedan xả thải, sau đó người dân Bà Rịa-Vũng Tàu phát đơn yêu cầu Vedan bồi thường. Ngày 30/3/2010, trên cơ sở kết quả xác minh thiệt hại của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu, Viện Môi trường và Tài nguyên (Đại học Quốc gia TP. HCM), kết luận giá trị thiệt hại của 1.255 hộ dân ở đây là 53,619 tỷ đồng. Từ kết quả này, ngày 9/4/2010, UBND tỉnh BÀ Rịa-Vũng Tàu có văn bản yêu cầu Vedan bồi thường. Qua nhiều lần đàm phán, Vedan tự đưa ra phương thức tính toán riêng và xác định nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu bị thiệt hại 31,9 tỷ đồng, nhưng chỉ đồng ý bồi thường 3,635 tỷ đồng. Ngày 2/6, Vedan có văn bản đề xuất nâng mức hỗ trợ lên 10 tỷ đồng. Ngày 10/6, UBND tỉnh có văn bản không chấp nhận đồng thời có văn bản đề nghiệ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam có giải pháp mạnh, quyết liệt với Vedan. Ngày 30/6, Vedan có công văn xin đàm phán. Ngày 15/7, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trả lời không chấp thuận nếu Vedan không chịu bồi thường đủ 53,61 tỷ đồng. Ngày 6/7, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu quyết định giúp bà con nông dân kiện Vedan ra tòa. Ngày 27/7, TAND huyện Tân Thành nhận những bộ hồ sơ khởi kiện Vedan đầu tiên của người dân. Một ngày sau, Vedan có văn bản xin nâng mức hỗ trợ từ 10 tỷ lên 40 tỷ đồng.

Tại TP. HCM, các hồ sơ chứng cứ khoa học đã được chuẩn bị khá đầy đủ. UBND huyện Cần Giờ đã đưa ra hồ sơ, tài liệu mới với khẳng định rằng “đang lưu giữ nhiều tài liệu, chứng cứ quan trọng và sẽ đưa ra trong dịp thích hợp, trong đó có cả tài liệu về sản lượng đánh bắt thủy sản của huyện vào năm 1973”. Đại diện Hội Nông dân TP. HCM khá không hài lòng và xác định “Chúng ta gặp gỡ để xác định tinh thần trách nhiệm cao nhất chứ không phải để mặc cả, trả giá. TP. HCM đã tỏ thiện chí, kiên nhẫn làm việc nhiều lần nhưng phía Vedan lại cò kè, mặc cả từ 7 tỷ đồng lên 12 tỷ rồi bây giờ là 15-16 tỷ. Người dân Cần Giờ rát bức xúc vì thời gian đã kéo quá dài”.

ii. Của chính quyền các địa phương trong VKTTĐPN

Ngày 29/6, các cơ quan, ban, ngành TP. HCM và Hội Nông dân đã thống nhất khởi kiện Công ty Vedan ra tòa, đòi bồi thường 45,7 tỷ đồng. Hiện Hội đang cùng nông dân huyện Cần Giờ tiến hành các thủ tục khởi kiện. Trong khí đó, tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Công ty Vedan cũng đã gửi công văn khẳng định thiệt hại của các hộ nông dân trên địa bàn tỉnh này chỉ ở mức là 3,6 tỷ đồng. Tuy nhiên, phía công ty này đề xuất hỗ trợ cho nhân dân huyện Tân Thành (Bà Rịa-Vũng Tàu) số tiền 10 tỷ đồng. Ngay sau đó, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã gửi công văn trả lời, yêu cầu Công ty Vedan thực hiện khoảng bồi thường, hỗ trợ thiệt hại theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường cho nhân dân 3 xã và 1 thị trấn huyện Tân Thành là hơn 53,6 tỷ đồng. Theo UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đây đã là mức yêu cầu bồi thường thể hiện thiện chí để giải quyết vụ việc có lý, có tình. UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khẳng định số tiền 10 tỷ đồng mà Công ty Vedan đề nghị hỗ trợ cho nhân dân bị thiệt hại của huyện Tân Thành cũng như những yêu cầu lý giải mà phía Công ty Vedan đã đưa ra là không phù hợp với thực tế. Nếu phía Công ty Vedan vẫn từ chối khoản bồi thường này, các cơ quan chức năng tỉnh cũng bắt tay vào việc khởi kiện Vedan trong thời điểm muộn nhất là ngày 20/7 tới.

Với câu hỏi, Đồng Nai nghĩ gì trước việc Bà Rịa-Vũng Tàu và TP.HCM quyết kiện Vedan Việt Nam, đại diện UBND tỉnh lý giải: “Các bước tiến hành là thận trọng theo pháp luật quy định đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. UBND tỉnh không chạy theo cách làm của BRVT, TP.HCM”! Ngoài ra, tỉnh Đồng Nai cũng có ý kiến rằng không thể dùng ngân sách hỗ trợ án phí nông dân như các tỉnh bởi Luật Ngân sách không cho phép. Đại diện của tỉnh cũng cam kết: “UBND tỉnh đã giao cho các cơ quan trực thuộc nỗ lực rà soát thẩm định thiệt hại, v.v… xử lý phù hợp quy định pháp luật. Nếu không đòi đền bù thỏa đáng, hết thời hiệu dân không kiện được bị thiệt hại thì chắc chắn cơ quan liên quan sẽ bị quy trách nhiệu, xử lý”. Trước đó, ngày 10/10, UBND tỉnh Đồng Nai có văn bản số 8792/UBND-CNN giao UBND các huyện Long Thành, Nhơn Trạch kiểm tra mức độ thiệt hại của các hộ dân có đơn phản ánh yêu cầu Vedan bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Nhưng đến ngày 28/10, UBND tỉnh Đồng Nai lại ban hành văn bản số 9076/UBND-CNN hủy bỏ văn bản 8792/UBND-CNN, đồng thời đề nghị người dân viết đơn riêng gửi trực tiếp đến giám đốc Vedan để yêu cầu bồi thường. Trường hợp không thỏa thuận được bồi thường, các hộ dân có thể gửi đơn đến tòa án nhân dân địa phương để được xem xét giải quyết.

iii. Của Bộ ngành Trung ương

Ngay từ năm 2005 và 2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã liên tục kiểm tra công tác bảo vệ môi trường của Công ty Vedan và đã liên tiếp phát hiện ra các vấn đề vi phạm ô nhiễm môi trường. Lãnh đạo của Bộ đã đưa ra nhận định rằng những hành động vi phạm của doanh nghiệp có thể là do nhận thức của doanh nghiệp chưa đầy đủ, nên đã có những hành vi vi phạm.

Bộ đã tường bước yêu cầu doanh nghiệp khắc phục, có lộ trình khắc phục, xử lý đáp ứng. Đợt kiểm tra năm 2008 là tiếp theo của những năm trước. Tuy đã có sự kiểm tra, thanh tra, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước cấp Bộ nhưng nếu chất lượng môi trường sông Thị Vải tiếp tục xấu đi nên việc kiểm tra đã được tiến hành ở mức độ sâu hơn là xác định rõ được nguyên nhân ô nhiễm là do đâu.

Chính vì vậy, trong thời gian tiếp theo, Bộ Tài nguyên và Môi trường kết hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành gắn với sự tham gia sát sao của Cục Cảnh sát môi trường điều tra phát hiện các hành vi vi phạm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên sông Thị Vải như Công ty Vedan.

5. Các nhận xét và đánh giá

i. Tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật liên quan đến quản lý tài nguyên nước

Sự vi phạm môi trường trong những năm vừa qua ngày càng phổ biến, đa dạng và liên tục; mức độ tổn hại ngày càng nghiêm trọng, nhưng không có nhiều vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cho dù các quy định về tội phạm môi trường đã có từ hơn 10 năm nay. Các vụ việc gây tác hại đến môi trường đều không bị xử lý hình sự. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với các sai phạm này đã bộc lộ những bất cập của việc hình sự hóa các vi phạm môi trường cũng như những yếu kém các cơ quan nhà nước trong quản lý môi trường ở cấp Trung ương và địa phương. Từ những lỗ hổng giữa thực tế về tình trạng môi trường ngày càng tăng, trong khi có rất ít vụ hay một số vi phạm cụ thể bị khởi tố hoặc xử lý hình sự cho thấy các bất cập như bất cập về chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự, bất cập về xác định hậu quả của hành vi phạm tội, bất cập về “yếu tố bắt buộc” trong truy cứu hình sự và bất cập về sự chồng chéo giữa các quy định của luật pháp. Mặt khác, vấn đề về năng lực thể chế và năng lực kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự vi phạm môi trường nước cũng cần lưu tâm. Phần này bao gồm những vấn đề về thẩm quyền điều tra tội phạm về môi trường, lực lượng thực thi pháp luật môi trường nói chung và đối với tài nguyên nước còn mỏng và yếu.

ii. Sự phối hợp của các tỉnh trong việc quản lý tài nguyên nước

Trong nhiều năm, ở tầm vĩ mô, các địa phương trong VKTTĐPN tuy có những hoạt động nhằm kết nối và triển khai một số chủ trương cấp vùng, nhưng nhìn chung, sự hợp tác của các địa phương còn chưa chặt chẽ. Điều này đã có phần ảnh hưởng đến sự vận hành chung của nền kinh tế ở cấp độ Vùng. Từ đó, có thể thấy, sự phối hợp trong việc quản lý nguồn tài nguyên nước giữa các tỉnh và thành phố cũng có một số trở ngại và chưa có tính hiệu quả trong các hoạt động khai thác và quản lý. Nhiều dòng sông và nguồn nước chảy qua địa phận nhiều tỉnh nhưng việc xây dựng hệ thống thông tin về môi trường và tài nguyên nước còn chưa đầy đủ và còn mang tính địa phương. Các chính sách và các quy định về quản lý nguồn tài nguyên chung, ở đây là nguồn nước còn chưa được xây dựng hoàn thiện. Các công tác kiểm tra, giám sát tình trạng của các dòng sông nhìn chung còn bị buông lỏng ở từng địa phương cũng như ở cấp độ Vùng. Mặt khác, các hệ thống pháp luật và các quy định về chính sách khác luật đầu tư, các chính sách đối với công ty có vốn đầu tư nước ngoài dường như cũng thiếu đi sự phối hợp không chỉ giữa các cơ quan ban ngành của địa phương, cũng như giữa các địa phương nên đã không được quan tâm và lưu ý nên đã làm cho Công ty Vedan có những ứng xử không thích hợp với cùng lúc nhiều sở ngành cũng như cấp tỉnh và thành phố.

iii. Công tác quản lý tài nguyên nước có sự tham gia của người dân và của cộng đồng

Qua hiện tượng Vedan gây ô nhiễm cũng như xem xét quá trình xử lý có thể thấy thiết chế cộng đồng chưa được công nhận một cách rõ ràng và được luật hóa một cách mạnh mẽ như một thực thể chính thức trong xã hội có chức năng, nghĩa vụ và quyền lợi để tham gia vào các quá trình bảo vệ nguồn tài nguyên, bao gồm nguyền tài nguyên nước trong VKTTĐPN. Các hội chưa có cơ sở và các điều kiện pháp lý để tham gia một cách đầy đủ, hợp pháp và có hiệu lực trong việc tham gia vào quá trình quản lý nguồn tài nguyên nước và các nguồn tài nguyên khác. Các quy trình và quy định còn chưa được xây dựng một cách minh bạch để người dân tham gia vào công tác khai thác và bảo vệ nguồn nước một cách chủ động và có kế hoạch, cũng như có những phản ứng thích hợp và hợp pháp khi có sự việc.

6. Đề nghị các hướng cơ chế và chính sách phù hợp và hiệu quả

Trong thời gian tới, một số hướng cơ chế và chính sách về quản lý tài nguyên môi trường nước mà các tỉnh và thành phố trong VKTTĐPN cần thực hiện gồm:

Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về quản lý tài nguyên nước, trong đó chú trọng xây dựng khung pháp lý về chia sẻ tài nguyên nước, quyền dùng nước và quản lý lưu vực sông. Tăng cường hệ thống các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên nước và coi đây như là hướng chính trong việc khai thác và quản lý nguồn tài nguyên nước. Các tỉnh/thành trong VKTTĐPN cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý nguồn tài nguyên nước trên địa bàn theo hướng cụ thể hóa các quy định về chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước, có bao gồm các sở chuyên ngành về khoa học công nghệ, xây dựng, nông nghiệp và phát triển nông thôn, kế hoạch đầu tư… Thực hiện việc ban hành và tổ chức thi hành các văn bản quy định, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn về tài nguyên nước trên địa bàn ngày càng chặt chẽ và yêu cầu cao.

Hai là, tăng cường hợp tác chia sẻ và bảo vệ nguồn nước giữa các tỉnh và thành phố có các con sông và nguồn nước đi qua. Trong đó tập trung nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nguồn nước sông Đồng Nai, sông Sài Gòn; xây dựng mối quan hệ hợp tác ở nhiều mức độ và cấp độ trong việc quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Phối hợp kiểm tra việc chấp hành và xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước.

Ba là, chia sẻ tài nguyên nước công bằng, hợp lý, đáp ứng cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Nhiệm vụ này cần chú trọng các công việc gồm lập và thực hiện quy hoạch phân bổ tài nguyên nước trên lưu vực sông, xác lập dòng chảy tối thiểu trong sông, tăng cường cấp phép sử dụng nước, xây dựng và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa.

Bốn là, bảo vệ chất lượng nguồn nước và khôi phục nguồn nước bị suy thoái. Các nội dung cụ thể bao gồm đánh giá và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu đối với nguồn nước, lập và thực hiện quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước, xác định mục tiêu chất lượng tài nguyên nước, các giá trị cộng đồng về sử dụng nước và tăng cường cấp phép xả nước thải vào nguồn nước, bảo vệ các vùng đất quan trọng có liên quan đến nguồn nước.

Năm là, điều tra, đánh giá, thiết lập hệ thống thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước. Trong đó tập trung xây dựng các chương trình cấp tỉnh và thành phố về điều tra cơ bản, đánh giá và kiểm kê tài nguyên nước; điều tra cơ bản, đánh giá, kiểm kê tài nguyên nước và thiết lập hệ thống thông tin, dữ liệu.

Sáu là, tăng cường năng lực quản lý Nhà nước đối với tài nguyên nước. Nhiệm vụ này bao gồm xây dựng và củng cố hoạt động của Hội đồng các Vùng về tài nguyên nước nói riêng và các tài nguyên khác, thiết lập bộ máy quản lý lưu vực sông, đào tạo và bồi dưỡng về quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan truyền thông cần tăng cường giáo dục, truyền thông và nâng cao nhận thức. Thực hiện việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ vào các quá trình quy hoạch, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.

7. Kết luận

Những diễn biến trong những năm gần đây trong các hoạt động sản xuất công nghiệp tại các tỉnh VKTTĐPN đặt ra nhiều vấn đề đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước. Nguồn tài nguyên này đã được khẳng định về tầm quan trọng của mình ở nhiều tài liệu không chỉ trong thời hiện đại. Sự quan trọng này đã là động lực lớn để cho khoa học về quản lý tài nguyên nước phát triển khá mạnh và đã hình thành những cơ sở lý luận quan trọng trong việc khai thác và quản lý nguồn tài nguyên quý giá này. Sự kiện Công ty Vedan gây ra tình trạng ô nhiễm cũng như các diễn biến của quá trình giải quyết và xử lý đã đặt ra nhiều vấn đề mà trước hết là việc hình thành khung lý thuyết một cách hoàn thiện để đảm bảo cho quá trình quản lý nguồn tài nguyên nước được hiệu quả và hài hòa, Theo đó, việc quản lý nguồn tài nguyên nước không thể chỉ mang tính kỹ thuật mà còn phải tính đến đến những yếu tố và tác động của các nhân tố kinh tế-xã hội. Các chính sách và chiến lược phát triển, khai thác và quản lý nguồn nước cho sự phát triển kinh tế-xã hội cần được tính toán một cách đầy đủ và có hiệu lực. Các tỉnh và thành phố năm trong VKTTĐPN trong thời gian tới cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề khai thác và bảo vệ tài nguyên nước với sự quản lý vĩ mô về mặt Nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường để cho nguồn tài nguyên này được quản lý một cách toàn diện và bền vững. Bên cạnh đó, các địa phương và chíh quyền các tỉnh thành phố trong Vùng cũng cần xây dựng những cơ chế rõ ràng để người dân và các tổ chức cộng đồng tham gia thực sự vào quá trình bảo vệ nguồn tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước, tạo điều kiện sớm cho người dân tham gia vào các hoạt động quy hoạch và hoạch định việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên nước, góp phần đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật cũng như các chính sách của Nhà nước về quản lý nguồn tài nguyên nước.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Trường Đại học Nghệ An chính thức trở thành hội viên của Hội Chăn nuôi Việt Nam
Chiều 14/8/2025, tại tỉnh Nghệ An, Hội Chăn nuôi Việt Nam đã tổ chức lễ trao giấy chứng nhận hội viên cho Trường Đại học Nghệ An. Sự kiện không chỉ ghi nhận đóng góp của Trường trong đào tạo và nghiên cứu lĩnh vực chăn nuôi, thú y, mà còn mở ra những cơ hội hợp tác mới trong tương lai, góp phần vào sự phát triển của ngành chăn nuôi, thú y Việt Nam.
Ứng dụng công nghệ số để MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị -xã hội đến gần dân, sẵn sàng phục vụ dân
(Mặt trận) - Sáng 15/8, tại Hà Nội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai thí điểm nền tảng "Mặt trận số" và tập huấn "Ứng dụng AI trong công tác MTTQ các cấp". Hội nghị tổ chức trực tiếp tại điểm cầu Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và trực tuyến đến 34 tỉnh, thành phố, 3.321 xã, phường, đặc khu trong cả nước.
Lan tỏa thông điệp về sự sẻ chia, đồng cảm và tinh thần đoàn kết quốc tế giữa hai nước Việt Nam - Cuba
(Mặt trận) - Sáng 13/8, tại Hà Nội, ông Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu tại Lễ phát động cấp quốc gia Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề “65 năm nghĩa tình Việt Nam - Cuba”.
Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Trung ương Hội ND Việt Nam Lương Quốc Đoàn gặp mặt Khối diễu hành “Nông dân Việt Nam”
(Mặt trận) - Sáng 12/8, tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam (Gia Lâm - Hà Nội), ông Lương Quốc Đoàn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã có buổi gặp mặt lực lượng Khối diễu hành "Nông dân Việt Nam" tại đại lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.
Tổng hội Y học Việt Nam: 70 năm xây dựng và phát triển
Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, với sứ mệnh vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp tục đổi mới phương thức và nội dung hoạt động, Tổng hội Y học Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vị trí, vai trò của Tổng hội được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành y tế và của đất nước.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến: Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy để phục vụ nhân dân tốt hơn, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc hơn
(Mặt trận) - Sáng 11/8, phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã khai mạc trọng thể tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu chỉ đạo Đại hội.
Một trí thức Liên hiệp Hội tỉnh Bình Phước được Đồng Nai giữ lại tránh “chảy máu chất xám” trong sắp xếp bộ máy
Sở Nội vụ tỉnh Đồng Nai vừa có văn bản khẳng định ông Nguyễn Ngọc Vũ - Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) tỉnh Đồng Nai, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Bình Phước không thuộc diện giải quyết nghỉ việc theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP.