Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 30/06/2011 21:23 (GMT+7)

Phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta - 10 năm nhìn lại

1. Một số kết quả phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta giai đoạn 2000-2010

a. Thành tựu

Trong 10 năm qua, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta liên tục phát triển, đạt nhiều thành công lớn. sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng nhanh. Theo thống kê, từ năm 2000 đến nay, tăng trưởng giá trị sản xuất năm 2000 đến nay, tăng trưởng giá trị sản xuất của nông nghiệp bình quân đạt gần 5,5%/năm. Trong giai đoạn gần đây, mặc dù trung bình mỗi năm giảm đi khoảng 70.000 ha đất nông nghiệp, tỉ trọng trong đầu tư xã hội giảm, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng nông, lâm, thủy sản vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP 3,8%/năm.

Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn cũng có bước chuyển dịch tích cực. Tỉ trọng nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản) trong tổng GDP cả nước giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,3% năm 2007 và tăng trở lại 22,1% năm 2008. Trong nội bộ ngành đang có xu hướng tăng nhanh tỉ trọng thủy sản, giảm tỉ trọng trồng trọt trong giá trị sản lượng. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 - 2008, tỉ trọng thủy sản tăng từ 16% lên 23% trong khi trồng trọt giảm từ 65% xuống còn 57%.

Trong nội bộ các ngành cũng diễn ra các chuyển biến cơ cấu tích cực. Trong trồng trọt, giai đoạn 2000-2010, diện tích gieo trồng lúa giảm hơn 250.000 ha, trong khi diện tích các cây công nghiệp, rau màu và cây ăn quả tiếp tục mở rộng. Trong chăn nuôi, hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại đang thay thế dần mô hình chăn nuôi tận dụng nhỏ lẻ ở gia đình. Trong thủy sản, nghề khai thác xa bờ phát triển nhanh. Đến nay, tổng số tàu thuyền có 130.963 chiếc với tổng công suất 5.400.000 CV; trong đó, tầu thuyền có công suất 90CV trở lên có 14.500 chiếc, chiếm tỉ trọng 11%. Hoạt động khai thác đang có xu hướng chuyển dần ra xa bờ, sử dụng các phương tiện, máy móc hiện đại như máy tầm ngư, định vị nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng rất nhanh, từ năm 2000 đến 2010, tăng hơn 408.000 ha. Sản phẩm nuôi trồng, khai thác thủy sản ngày càng gia tăng, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Trong lâm nghiệp, việc trồng rừng sản xuất được đẩy mạnh với chương trình trồng mới 5 triệu ha. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt trên 38,7%. Nhiều nơi đã tiến hành khai thác kinh doanh tổng hợp, phát triển chế biến lâm sản. Đồ gỗ sau chế biến đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng.

Cơ cấu kinh tế nông thôn cũng chuyển biến tích cực. Từ một nền kinh tế thuần nông, đến năm 2007, trong khu vực nông thôn, công nghiệp và dịch vụ đã chiếm khoảng 60% cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp ở nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề đang phát triển nhanh ở nông thôn. Ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng giai đoạn 2001- 2006 ở mức 14,8%/năm, nâng giá trị chế biến nông, lâm sản năm 2007 lên 28% cơ cấu giá trị sản xuất và 14% giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp.

Nhờ sản xuất nông nghiệp từng bước phát triển, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường trong nước nên an ninh lương thực quốc gia được đảm bảo. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 445 kg năm 2000 lên hơn 500kg năm 2010. Việt Nam đảm bảo đủ nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu trung bình hơn 4 triệu tấn gạo/năm. So với các nước trong vùng, giá nông sản, nhất là giá lương thực, thực phẩm ở Việt Nam ở mức tương đối thấp đã giữ giá ngày công lao động thực ở mức khá thấp, hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài và góp phần thiết thực cho công tác xóa đói giảm nghèo.

Bên cạnh đó, xuất khẩu các loại nông, lâm sản tiếp tục được mở rộng, một số ngành có thị phần lớn trong khu vực và thế giới như gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ gỗ, thủy sản… Giá trị kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2000-2007 đạt 51,9 tỉ USD, bình quân mỗi năm đạt khoảng 65, tỉ USD, tốc độ tăng trưởng của các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2010 là: gạo 13,6%, cà phê 19,4%, cao su 32,5%, điều 27,8%, hải sản 19,1%.

Nhờ những thành tựu trên, nông nghiệp phát triển, nông thôn đổi mới đã góp phần quan trọng tại sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội, mở đường thành công và làm nền tảng vững chắc cho quá trình đổi mới đất nước. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người hộ nông dân tăng từ 2,7 triệu đồng/người năm 1999 lên gần 10 triệu đồng/người năm 2010 (tính theo giá hiện hành).

Nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung đã cơ bản hoàn thành việc "xóa" nhà tranh tre, nứa lá; nhiều huyện, xã ở miền Bắc và miền Trung đã cơ bản "ngói hóa" nhà ở. Vùng đồng bằng sông Cửu Long, thực hiện Nghị quyết "Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh khu vực đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2000-2010" đã xây dựng trên 1.100 cụm, tuyến dân cư, đảm bảo bố trí cho khoảng 200 ngàn hộ dân đang sống thường xuyên trong vùng ngập lũ và "sống chung với lũ" khi có lũ lớn.

Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", giao thông nông thôn có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 1999-2009, làm mới được hơn 24.167 km đường; sửa chữa, nâng cấp 150.506 km đường. Năm 2009, có tới gần 98% xã có đường ô tô đến khu trung tâm; trong đó, 42,6% xã có đường liên thôn được nhựa, bê tông hóa trên 50%. 98% huyện, 96,8% xã và 93,3% hộ nông thôn có điện lưới quốc gia.

Chỉ tính đến năm 2008, đã có 99,3% số xã có trường tiểu học, trên 92% số xã có trường trung học cơ sở, 55% số thôn có lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà trẻ. 91% số xã có báo đến trong ngày, 100% xã có điện thoại cố định, bình quân 6,67 máy/100 dân; 85,5% xã có điểm bưu điện - văn hóa. Tỉ lệ số hộ nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh lên tới 75%. Từ 2006 - 2009, tổng đầu tư cho chương trình nước sạch là trên 7.127 tỉ đồng; trong đó, vốn dân đóng góp khoảng 47,1%, ngân sách 17%, tài trợ của quốc tế 14%.

Các tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị xã hội và chính quyền địa phương được củng cố và phát triển. Đa số các tổ chức đảng ở cơ sở, các đảng viên phát huy tốt vai trò giữ vững sự ổn định về tư tưởng chính trị; định hướng, vận động tổ chức nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn.

Quy chế dân chủ ở cơ sở được quan tâm thực hiện. Chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" tập trung trên một số mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng; chuyển dịch cơ cấu sản xuất; huy động sự đóng góp của người dân; hỗ trợ nhân dân khi bị lũ lụt, bão, tai nạn; nâng cao trình độ văn hóa của người dân ở nông thôn… bước đầu đã phát huy sức sáng tạo, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của người dân trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, từng bước cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội. Nhờ sự phối hợp hoạt đọng của toàn hệ thống chính trị và nhân dân, trật tự xã hội nông thôn được đảm bảo, giữ vững an ninh chính trị, đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước.

Có được các thành tựu trên là nhờ các chính sách và chủ trương hợp quy luật, hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước; trong đó, nổi bật là việc giao đất, giao tư liệu sản xuất của hợp tác xã cho hộ nông dân, tự do hóa thương mại, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, tạo nên động lực cho người sản xuất, kinh doanh, cư dân nông thôn và mọi thành phần kinh tế hăng hái tham gia sản xuất, chủ động sáng tạo, chấp nhận cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, việc ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học công nghệ mới đã góp phần đáng kể nâng cao năng suất và chất lượng của nông nghiệp trong những năm qua.

b. Hạn chế

- Nông nghiệp tăng trưởng còn kém bền vững và tính cạnh tranh thấp. Tình trạng "kéo giá" bất lợi cho sản xuất nông nghiệp diễn ra kéo dài trong nhiều năm. Từ năm 2003-2005, giá trị vật tư nguyên liệu đầu vào của nông nghiệp tăng trung bình từ 2-2,5 lần, giá lao động tăng từ 2-3 lần; trong khi đó, giá nông sản chỉ tăng từ 1,2-1,3 lần. Bên cạnh đó, các tài nguyên đầu vào như đất, nước, lao động và tỉ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp liên tục suy giảm. Sản xuất nông nghiệp phải đương đầu với hàng loạt rủi ro về dịch bệnh và thiên tai. Cạnh tranh trên thị trường diễn ra quyết liệt và người nông dân luôn phải chịu vị thế bất lợi. Vì vậy, tăng trưởng của GDP nông nghiệp thời gian qua có xu hướng giảm sút. Giai đoạn 1995-2000, tốc độ tăng GDP nông nghiệp là 4% thì giai đoạn 2000-2007 giảm xuống còn 3,7%. Cùng với các biến động bất lợi trong kinh tế vĩ mô quốc gia và tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế như tình trạng lạm phạm phát, biến động giá dầu mỏ, giá nông sản và tác động của các chính sách thắt chặt tiền tệ, biến động về tỉ giá hối đoái… đã gây nhiều thiệt hại cho việc làm và thu nhập của cư dân nông thôn thời gian gần đây.

- Nông nghiệp có chất lượng thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm kém. Do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, nông dân chưa được tổ chức trong các hợp tác xã và hiệp hội ngành hàng, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến như kho tàng, sân phơi, bến bãi… còn kém phát triển, công nghiệp chế biến nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng nhiều loại nông sản thấp, nhất là rau quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản chế biến xuất khẩu ở dạng sơ chế, mẫu mã bao bì chưa phù hợp; chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp. Vệ sinh an toàn thực phẩm trong nước và các hoạt động kiểm dịch và vệ sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là qua đường tiêu ngạch chưa được kiểm tra, kiểm soát một cách hệ thống trong khi tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp đang là thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế.

- Lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ nông thôn chậm phát triển. Từ khi có Luật Doanh nghiệp, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn đã tăng đáng kể. Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông, các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỉ lệ nhỏ. Doanh nghiệp ở nông thôn, kể cả doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, đều có quy mô nhỏ. Nhìn chung, với công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, tay nghề lao động yếu, những bất lợi về kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất khiến cho khả năng cạnh tranh của các đơn vị này rất yếu. Đầu tư của tư nhân trong nước vào khu vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% tổng số đầu tư mới hàng năm, FDI cũng chỉ chiếm dưới 5%.

- So với đô thị, thu nhập của dân cư nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao. Mặc dù tỉ lệ người nghèo giảm nhanh và đáng kể trong thời gian qua nhưng tốc độ giảm số hộ nghèo của nông thôn vẫn thấp hơn so với thành thị khoảng 20%. Vẫn còn khá nhiều người dân sống dưới hoặc cận kề mức nghèo đói. Năm 2007, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn là 17,7% trong khi ở thành thị là 7,4%. Nhiều nơi ở miền núi phía Bắc, tỉ lệ hộ nghèo còn trên 70%.

2. Một số bài học kinh nghiệm

Một là, phải xác định đúng vai trò nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế. Trước thời kì đổi mới, công nghiệp luôn được đặt lên vị trí ưu tiên trong khi nông nghiệp chỉ được coi là lĩnh vực phối hợp thứ yếu. Trong quá trình đổi mới, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn từng bước được xác lập, được coi trọng. Quan điểm này được thể hiện bằng hàng loạt cơ chế chính sách ưu đãi cho nông nghiệp và nông thôn, thể hiện qua sự phân bổ đầu tư, bố trí nhân lực và qua sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp. Nhờ vậy, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có sự phát triển toàn diện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Tuy vậy, vẫn có lúc, có nơi, xảy ra sự thiếu nhất quán giữa chủ trương và giải pháp phát triển nông nghiệp làm giảm hiệu quả của chính sách. Gần đây, khi vấn đề lương thực đã được giải quyết một cách căn bản, nhiều loại nông sản dư thừa, trước sức ép tạo việc làm, tăng nhanh thu nhập cho dân, tăng nguồn thu cho ngân sách, nhiều nơi có biểu hiện xem nhẹ nông nghiệp, nông thôn, chỉ chăm lo phát triển công nghiệp và đô thị.

Trước thực trạng này, cần phải nhận thức rõ, trong nhiều năm tới, nông thôn vẫn là nơi cư trú và nông nghiệp vẫn là nguồn việc làm và thu nhập chính của đa số dân cư Việt Nam . Hơn thế nữa, hiện có tới 90% người nghèo sinh sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải được chú trọng như nền tảng đảm bảo ổn định tình hình kinh tế, xã hội và là điều kiện quan trọng để quá trình phát triển đất nước diễn ra toàn diện, nhanh chóng và bền vững.

Hai là, quá trình phát triển phải phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường. Một trong những điều kiện quan trọng để hình thành cơ chế thị trường là sự phân định rõ ràng quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra. Các chính sách đổi mới đã lần lượt tháo gỡ các trở ngại, xác lập quyền tự chủ ngày càng trọn vẹn cho các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp, trước hết là hộ gia đình và các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đổi mới các HTX nông nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước, nông trường, lâm trường quốc doanh đã bắt đầu từ việc trao một phần quyền chủ động trong việc sử dụng đất đai, tư liệu sản xuất - kinh doanh cho các hộ gia đình, tổ, đội, xí nghiệp. Các chủ thể này được hưởng một phần sản phẩm làm ra với những quy định rõ ràng. Từng bước, Nhà nước đã giao hẳn quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân, hộ chủ động sản xuất và sau khi nộp thuế, còn toàn quyền quyết định đối với sản phẩm làm ra. Quá trình trên đã chấm dứt tình trạng "cha chung không ai khóc", làm rõ người chủ thực sự cho từng loại tài nguyên, giao quyền lợi thiết thực và trách nhiệm rõ ràng cho từng tổ chức sản xuất - kinh doanh. Đó là chìa khóa để khởi động cơ chế thị trường.

Tiến lên một bước, Nhà nước đã chủ động tạo điều kiện và hỗ trợ cho các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất - kinh doanh, thông qua phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công; nghiên cứu và chuyển giao khoa học kĩ thuật; phát hiện các kênh cho vay vốn; tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại và khơi thông thông tin thị trường quốc tế; đào tạo nhân lực; cải cách hành chính. Sự hỗ trợ này đã được thực hiện không phải bằng cách bao cấp mà ngược lại, từng bước chuyển sang hình thức phù hợp với cơ chế thị trường.

Những thay đổi đúng hướng đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thị trường vận hành có hiệu quả và phát huy tác dụng mạnh mẽ. Giải phóng thị trường, mở rộng quy mô thị trường vươn khỏi phạm vi hạn hẹp của quốc gia, cho phép điều tiết hiệu quả tài nguyên trong xã hội, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích nông dân và các thành phần kinh tế phát huy nội lực phát triển sản xuất - kinh doanh. Cơ chế cạnh tranh ngày càng quyết liệt đã thúc đẩy mọi người phải làm việc ngày càng có hiệu quả hơn.

Ba là, các chủ trương, chính sách phải xuất phát từ thực tiễn. thực tiễn đưa ra câu hỏi phải giải đáp và cũng đưa ra lời giải thiết thực cho đường lối, chính sách. Những chính sách ra đời từ thực tiễn và được đúc rút từ thực tiễn thường dễ được chấp nhận và phát huy tác dụng nhanh chóng.

Bốn là, tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho cư dân nông thôn, chú trọng phát triển khoa học công nghệ, tạo bước đột phá cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nông nghiệp. Phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, công nghiệp và dịch vụ cũng như các ngành kinh tế - xã hội ở nông thôn đều cần nguồn nhân lực có trình độ văn hóa và tay nghề. Hiện nay, thiếu nhân lực được đào tạo đang là cản trở lớn cho quá trình phát triển ở nhiều vùng, gồm cả các bộ quản lý. Thực tế cũng cho thấy, các loại cây trồng, vật nuôi có sự phát triển mạnh mẽ trước hết đều nhờ có được những tiến bộ kĩ thuật có tính chất đột phá, nhất là về giống như lúa, ngô, sắn, cao su, cà phê, điều, lạc, tôm, cá tra. Việc áp dụng các quy trình GAP, HACCP, ISO… có tac dụng lớn nâng cao chất lượng sản phẩm.

3. Một số định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011-2020

- Tiếp tục xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.

- Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Cụ thể:

+ Giai đoạn 2011-2015: Phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy dân chủ cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát huy nông thôn; tăng thu nhập và giảm đáng kể tỉ lệ nghèo, bảo vệ môi trường. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp cần ổn định ở mức 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học công nghệ. Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kĩ năng sản xuất - kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động nông thôn. Tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên kết dọc theo ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Phát triển doanh nghiệp nông thôn.

Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái nông thôn, tập trung và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, phòng chống thiên tai.

Cộng đồng cư dân nông thôn cần chủ động, tích cực thực hiện xây dựng nông thôn mới với 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Giảm đáng kể tỉ lệ hộ nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo.

+ Giai đoạn 2016-2020:Phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, vững bền; phát triển nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước, tăng thu nhập và cải thiện căn bản điều kiện sống của cư dân nông thôn, bảo vệ môi trường. Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,5-4%/năm. Hình thành một số ngành sản xuất - kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu cầu thị trường. Phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động nông nghiệp còn khoảng 30% trong tổng lao động xã hội. Hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có kĩ năng sản xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình kinh tế hợp tác và kết nối với thị trường.

Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số xã đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với hiện nay. Quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô thị, công nghiệp.

Tiếp tục phát triển lâm nghiệp, tăng độ che phủ của rừng lên 43-45%, bảo vệ đa dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái tạo và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục và giảm thiểu thiệt tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến đổi khí hậu.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.