Nhận thức đúng để có hành động đúng về tự do và dân chủ
Đúng vậy, sẽ không có hành động đúng đắn, có hiệu quả đối với tất cả mọi vấn đề hiện nay của xã hội trên bình diện cả nước, nếu chúng ta không có được một nhận thức đúng đắn, dựa trên “sự phân tích hình cụ thể” của những vấn đề đó.
Vấn đề sáng tạo trong tự do và dân chủ
Ngay mới gần đây, đồng chí Tổng Bí thư Đảng Lê Khả Phiêu, tại đại hội thi đua toàn quốc lần thứ VI đã nói: “ Thi đua là sáng tạo, trí tuệ, tiến công…”
Tuy nhiên, sáng tạo là tìm ra cái mới, mà cuộc sống của cái mới lúc ban đầu bao giờ cũng không dễ dàng. Cái mới, mặc dù tiền đồ nó vô cùng xán lạn, phải tìm ra lối đi an toàn giữa cái cũ đang ngự trị, sẵn sàng bóp chết nó! Nếu lãnh đạo không nâng niu, trân trọng cái mới đang phôi thai, thậm chí lại còn vùi dập nó chỉ vì một lý lẽ là nó mới, không quen thuộc, chưa được đa số chấp nhận, thì làm sao có cái mới và có sáng tạo được?
Kinh nghiệm vụ Lyssenko ở Liên Xô trước đây và kinh nghiệm vụ Kim Ngọc ở Việt Nam trong thời kỳ bao cấp.
Ở Liên Xô trước đây từ năm 1932 đến 1964, với sự ủng hộ của Stalin và Đảng cộng sản, Lyssenko đã phản đối mọi tư tưởng mới về thuyết gen, cho rằng, gen là không có thật, là chuyện bịa đặt của khoa học tư sản… Kết quả là ngành sinh vật học Liên Xô bị lạc hậu gần nửa thế kỷ, so với các nước tiên tiến khác.
Ở Việt Nam, có kinh nghiệm của đồng chí Kim Ngọc, nguyên bí thư tỉnh Vĩnh Phú, đã có sáng kiến mạnh dạn khoán hộ trong sản xuất nông nghiệp và kinh nghiệm này, dưới thời đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư, đã được chấp nhận và phổ biến. Và kinh nghiệm của đồng chí Kim Ngọc sau khi áp dụng đại trà, đã biến nước Việt Nam từ một nước phải ăn bo bo thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới.
Tuy nhiên, vấn đề gì cũng cần được thấy không phải một chiều. Ngay trong lĩnh vực nghiên cứu và sáng tác, cũng không thể có sự tự do tuyệt đối, đồng thời cũng không nên có sự can thiệp thô bạo của quyền lực, và cũng không nên xem mọi lời nói của lãnh đạo có giá trị như Kinh Thánh.
Không thể có tự do tuyệt đối, ngay trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, sáng tác nghệ thuật hay bất cứ một lĩnh vực xã hội nào khác.
Trong bất cứ một xã hội nào, kể cả những xã hội “tự do nhất”, về mặt chính trị, cũng có những hạn chế nhật định với tự do tư duy và tự do hành động. Để có được tự do và để hưởng tự do, mỗi người đều phải biết tự hạn chế mình trong những khuôn phép mà cả xã hội đều đồng thuận. Một ví dụ cụ thể là vấn đề giao thông ở nước ta. Có lẽ, trên thế giới, ít có nước nào mà nhân dân đi bộ, đi xe đạp, xe máy tự do như ở nước ta. Đôi khi, tôi thấy có những ông cụ giơ một cánh tay lên trời, rồi ngang nhiên đi qua đường phố đông đúc, khiến mọi xe cộ đều phải ngưng lại hết!. Đúng là tự do chết người, vì ở nước ta, tỷ lệ tai nạn giao thông do xe đạp, xe gắn máy gây ra rất cao, so với các nước trong khu vực.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật văn học, cũng không thể có tự do tuyệt đối, không hạn chế.
Tôi muốn nhấn mạnh lại ý tứ này là “không có sự tự do tuyệt đối”, kể cả trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật cũng như nghiên cứu khoa học. Nhưng dựa vào những tiêu chuẩn gì để có quyết định đúng đắn trong những lĩnh vực khá tế nhị và phức tạp này? Phải chăng đó là tiêu chuẩn lợi ích đích thực của con người, của cộng đồng, của nhân loại. Và một nhà nước có trách nhiệm cũng phải chú ý và cân nhắc những tiêu chuẩn đạo đức như vậy. Tất nhiên, nhà nghiên cứu khoa học và văn nghệ sĩ sáng tác lại phải càng không được quên những tiêu chuẩn đó trong hoạt động nghiên cứu và sáng tác của mình.
Trường hợp sau đây xảy ra ở Mỹ, đúng vào thời kỳ hoà bình là trường hợp Sở y tế công cộng (Public Health Service) ở bang Alabama, từ năm 1932 đến năm 1972, đã sử dụng 400 công nhân Mỹ tại bang này, đều là người da đen nghèo, làm vật thí nghiệm để nghiên cứu sự diễn biến của bệnh giang mai không được chữa chạy. Trong quá trình thí nghiệm, đã có 28 người chết vì bệnh, 40 người vợ và 19 hài nhi nhiễm bệnh. Công trình nghiên cứu này giữa chừng phải kết thúc đột ngột vì có một nữ ký giả là Jean Heller đã công bố một bài phóng sự về công trình nghiên cứu phi đạo đức này. Tuy chuyện này bị vỡ lở, nhưng không một bác sĩ nào tham gia công trình bị đưa ra tòa. Mãi tới năm 1997, Tổng thống Clinton mới công khai xin lỗi nhân dân Mỹ về vụ bê bối này.
Người Nhật hình như cũng không thua kém gì người Mỹ về mặt này. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, bác sĩ Yoshimura lãnh đạo một đơn vị quân đội, mang số hiệu 751, tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm với các tù binh Trung Hoa và Đồng minh. Một nội dung của công trình nghiên cứu của ông về sự thích ứng của cơ thể người với môi trường là đem ngâm một số tù binh vào nước đá, sau đó lấy búa đánh vào cơ thể tù binh, để xác định thời điểm tay chân họ bắt đầu hóa đá! Một thực nghiệm khác là bắt trẻ con Trung Hoa ăn sô cô la nhiễm vi khuẩn anthrax, để xem mất bao nhiêu thời gian thì đứa trẻ mới chết.
Lẽ nào vì những công trình nghiên cứu như vậy mà bác sĩ Hisato Yoshimura, năm 1978, nhận được huân chương cao quý nhất của Nhật Bản vì cống hiến của bác sĩ cho khoa học thích ứng với môi trường.
Trên đây, chỉ nói vài vụ việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, để thấy lương tâm và trách nhiệm của các nhà khoa học phải được đề cao, chứ họ không thể lấy nhãn hiệu khoa học để che đậy một số việc làm có thể là rất phi đạo đức và phi nhân bản của họ.
Bàn về tự do trong lĩnh vực kinh doanh
Kinh doanh, làm kinh tế cũng đòi hỏi những điều kiện thuận lợi nhất định, nếu không thì đà phát triển kinh tế sẽ bị chặn đứng, kinh doanh sẽ bế tắc.
Nhưng nhà kinh doanh, cũng như nhà khoa học và văn nghệ cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với công việc kinh doanh của mình. Thí dụ, kinh doanh ma tuý hay tình dục thì không có nước văn minh nào có thể chấp nhận.
Nhưng xin hỏi: còn kinh doanh vũ khí thì sao đây?
Hiện nay, 95% số vũ khí được chế tạo và buôn bán trên thế giới là của 5 quốc gia thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc! Hàng năm, chi phí quân sự trên thế giới đạt đạt con số khoảng 700 tỷ đô la, chi phí sử dụng ma tuý 400 tỷ! Hàng năm, chỉ riêng ở Mỹ và châu Âu, người ta bỏ ra 12 tỷ đô la để mua nước hoa và dầu thơm trang sức, trong khi đó thì chỉ cần có 6 tỷ đô la là đủ để đảm bảo nền giáo dục cơ bản cho nhân dân toàn thế giới.
Các chính phủ nói chung và đặc biệt là các chính phủ ở các nước công nghiệp tiên tiến, nói và tuyên bố thì hay lắm, nghe sướng tai lắm. Đó là ma lực của ngôn ngữ. Nhưng những việc làm của họ thì không hay bằng, chỉ hay một nửa. Nói như thế, không có nghĩa là chúng ta không học tập những cái hay trong kinh nghiệm quản lý Nhà nước và xã hội của họ.
Nhận thức đúng về dân chủ hoá
Trong những năm gần đây, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ ở nước ta nói nhiều về “ dân chủ hóa”, như là một điều kiện cơ bản và tất yếu để nâng cao chất lượng quản lý xã hội. Thật là điều đáng mừng. Lời nói của Bác Hồ: Cán bộ là đầy tớ của nhân dân, cán bộ phải là người học trò của quần chúng…Những lời nói đó là thước đo vàng ngọc của nền dân chủ ở nước ta.
Gần đây, đọc quyển Quan điểm Ấn Độ giáo về cuộc sống (The Hindu view of life)của Radhakrishnan, nguyên Tổng thống Ấn Độ, tôi thấy có câu: Xã hội Ấn Độ đại biểu cho sự phức tạp có trật tự, sự đa diện hài hòa, sự phong phú khác biệt trong cái một thống nhất… đó chính là chìa khóa để hiểu cấu trúc của vũ trụ.
Cốt lõi của nền dân chủ thật sự chính là tôn trọng và bảo vệ tính phong phú, đa dạng của cuộc sống, và cũng phát hiện, tôn trọng, bảo vệ tính thống nhất và hài hòa trong sự phong phú và đa dạng đó.
Cái hay và cái đáng quý của nền dân chủ là nó không cần dùng bạo lực để áp đặt, chỉ dùng lẽ phải và sự thuyết phục khiến cho cả nước triệu người như một. Khi nói, chúng ta thường chỉ nhấn mạnh một chữ mộtmà bỏ quên chữ triệu, và nói triệu ở đây không phải một triệu con số vô tri vô giác mà là hàng triệu con người có trái tim yêu nước và đầu óc trí tuệ, những con người sống có lý tưởng, sống tự do và tự trọng, trong một xã hội có luật pháp, tạo cơ may bình đẳng thăng tiến về kinh tế, nghề nghiệp và học hành cho tất cả mọi công dân, không phân biệt.
Biến triệu người như một người thì không thể dùng bạo lực, mà chủ yếu phải dùng sức thuyết phục. Mà sức thuyết phục hiệu quả nhất là chân lý, là lẽ phải được diễn đạt một cách lô gic, lô gic đến mức ai nghe cũng tán thành, hơn nữa còn ưa thích.
Tôi mong rằng, môn lô gic học cần được giảng dạy phổ cập ở tất cả các trường đại học ở nước ta, nhất là môn lô gic học phương Đông, mà người Ấn Độ gọi là Nhân minh học.Ở các trường đại học Việt Nam, chỉ dạy môn lô gic học phương Tây, như vậy rõ ràng là rất thiếu sót.
Thuyết phục bằng sức mạnh của lô gic thay vì bằng sức mạnh của bạo lực, dù là bạo lực chính trị hay bạo lực quân sự, phải dần dần trở thành ưu điểm nổi bật của chế độ xã hội chúng ta. Bạo lực không phải là không được sử dụng, nhưng đó là trường hợp vạn bất đắc dĩ. Bạo lực chỉ làm cho dân sợ, không làm cho dân tin tưởng và gần gũi. Mà một nhà nước làm cho dân sợ, không gần gũi, sẽ không phải là nhà nước dân chủ đích thực.
Ông Lão Tử, tuy sống bên Trung Quốc, cách đây hàng mấy nghìn năm, nhưng cũng đã biết một nhà nước làm cho dân sợ là không tốt. ông viết ở chương 17 cuốn Đạo đức kinh:
Thái thượng, bất tri hữu chi. Kỳ thứ, thân nhi dự chi, kỳ thứ, uý chi, kỳ thứ, vu chi…
Ý tứ câu trên là: Nhà nước tốt nhất, quản lý giỏi tới mức, người dân không biết nhà nước tồn tại. Ở dưới một bậc nữa, là nhà nước mà nhân dân sợ, ở dưới cùng là nhà nước mà nhân dân khinh.
Điều đáng mừng cho chúng ta là trong mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên đề cao khẩu hiệu dân chủ hóa, chủ trương thực hiện dân chủ từ cấp cơ sở, loại bỏ những thủ tục hành chính có tính sách nhiễu, làm phiền hà dân, tệ nạn tham nhũng vốn làm cho nhân dân ghét nhà nước, đang bị Đảng và Nhà nước kiên quyết loại trừ.
Lời nói sau đây của triết gia Anh Stuart Mill (1806-1873) có thể là cường điệu, nhưng cũng đáng cho chúng ta suy ngẫm:
Nếu cả nhân loại, trừ một người, có cùng một ý kiến, và chỉ người đó có ý kiến đối lập thì nhân loại cũng không lý do gì chính đáng để bắt người ấy im tiếng, cũng như người đó, nếu có quyền lực cũng không có quyền chính đáng bắt nhân loại im tiếng… Chúng ta không thể bao giờ chắc rằng, ý kiến mà chúng ta vùi dập là sai, và dù có chắc chắn đi nữa, thì vùi dập ý kiến của người khác cũng là một điều xấu.
Dân chủ hóa và bình đẳng
Khái niệm bình đẳng nên được nhận thức thế nào cho đúng, trong khuôn khổ của một chế độ dân chủ đích thực. Theo tôi, bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, đối với thiên tài cũng như đối với kẻ ngu, đối với người quản lý giỏi cũng như đối với người lao động phổ thông, không kỹ năng. Bình đẳng theo kiểu cào bằng, sẽ làm cho quốc gia thiệt mất bao nhiêu nhân tài, là của quý không thể mua được bằng bất cứ giá nào.
Một nhận thức đúng đắn về bình đẳng trong khuôn khổ dân chủ sẽ tạo cơ may bình đẳng cho mọi người công dân trong việc học hành, thu hoạch kiến thức cũng như trong việc thăng tiến xã hội và kinh tế. Trong lĩnh vực y tế, cơ may bình đẳng cũng sẽ được tạo ra cho mọi công dân trước cái chết và bệnh tật. Tất nhiên, để thành đạt được những cơ may bình đẳng như vậy cho tất cả mọi công dân không phân biệt, Nhà nước phải có một ngân sách an ninh xã hội và giáo dục văn hóa lớn. Ở các nước tiên tiến, có cả một chế độ thuế khóa đánh lũy tiến theo thu nhập, nhằm lấy của cải thừa của lớp người giàu trang trải chi phí giáo dục và an sinh xã hội cho lớp người nghèo. Thế nhưng, sau khi tạo đầy đủ cơ may cho mọi công dân để thăng tiến xã hội và kinh tế, mà những người thiên tài thì nổi bật, kẻ bất tài thì vẫn cứ bất tài, thì xã hội sẽ có quyền lựa chọn, sàng lọc, bổ nhiệm người tài vào địa vị xứng đáng và người bất tài lại lười biếng vào những địa vị ít trách nhiệm hơn.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục bầu cử hay bổ nhiệm vào các cơ quan hành chính và lập pháp những người có mặt cho đủ mặt, đủ thành phần, đủ địa phương,thì nhất định chất lượng làm việc của các cơ quan hành chính và lập pháp đó sẽ rất bị hạn chế.
Nhận thức về tệ nạn xã hội trong một chế độ dân chủ đích thực
Trước hết cần nhận thức: tệ nạn xã hội như tham nhũng, ma tuý, mãi dâm, cờ bạc, buôn lậu v.v… không những chỉ là sản phẩm của cá nhân, mà còn là sản phẩm của xã hội nữa. Với một tổ chức xã hội như vậy, nhất định các loại tệ nạn xã hội phải xảy ra, không ít thì nhiều.
Xã hội cần được nhận thức như là một tổng thể hữu cơ, muốn tồn tại và phát triển thì tự nó phải điều hành bản thân nó, tự nó phải loại bỏ mọi nhân tố tiêu cực, mất cân bằng. Cơ chế tự điều hành và điều chỉnh của xã hội hoạt động đôi khi một cách vô thức, ngoài ý muốn cá nhân, và cũng nhờ đó mà rất hữu hiệu. Nhà nước không thể can thiệp thô bạo hay vội vã được. Nói như vậy, không có nghĩa là nhà nước bó tay, không can thiệp gì hết.
Tôi xin nói rõ: Nhà nước phải can thiệp đúng lúc trong mọi trường hợp vi phạm luật pháp, quấy rối trật tự tri an, nhưng sự can thiệp và mức độ can thiệp của nhà nước cũng phải đúng luật pháp.
Văn hào Đức-Goethe, nói một câu rất hay, đáng cho mọi cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng phải suy ngẫm: Niềm hạnh phúc lớn nhất của con người như một nhà tư tưởng là tìm hiểu nắm bắt được nhừng gì có thể nắm bắt, và trân trọng nghiêng mình chào những điều gì không thể nắm bắt(“Religion and society” (Tôn giáo và xã hội), tr.44. S.Radhakrishnan. Harper Collins Publishers).
Trong vũ trụ này có bao nhiêu điều, chúng ta không hiểu, mà cũng không giải thích được, mặc dù chúng vẫn tồn tại. Mà nói như Hegle, cái gì tồn tại là hợp lý.Hợp lý ở đây nên hiểu là có đạo lý, mặc dù hình thức bề ngoài, thấy có vẻ như là bất hợp lý.
Tôi nói như vậy, để chúng ta thận trọng khi phải xử lý những vấn đề chúng ta không hiểu hay chưa hiểu.
Mác nói: Qua tác động đến thế giới bên ngoài và thay đổi nó, con người thay đổi bản chất của mình(Tư Bản. Cuốn I, tr.198). Còn tôn giáo thì nói: Phải thay đổi bản chất con người mới thay đổi được xã hội.
Đó là hai quan điểm khác nhau. Hãy để cho tôn giáo làm nhiệm vụ của nó là giúp con người thăng hoa lên trên những giá trị thế tục tầm thường, như danh và lợi, quyền lực và tài sắc. Làm công việc thăng hoa đó, ít nhất tôn giáo cũng góp phần đẩy lui, hạn chế những tệ nạn xã hội. Đó là một hình thức xã hội tự điều chỉnh, tự thanh lọc những yếu tố tiêu cực, phi đạo đức và phi xã hội, hỗ trợ đắc lực cho Đảng và Chính phủ trong cuộc đấu tranh gian nan chống các tệ nạn xã hội hiện nay đang hoành hành, đe dọa đục ruỗng mọi giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tôn giáo là người đồng minh đắc lựctrong cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là hai nạn tham nhũng và ma túy.
Nguyên nhân sâu xa của tham nhũng đâu có phải là ở đồng lương thấp, bởi lẽ dễ hiểu là những vụ tham nhũng lớn đều là của những quan chức cao cấp, giàu có và đầy quyền lực. Do đó, có thể khẳng định không phải thiếu tiền mà tham tiền. Tham tiền là do lòng tham. Mà đối trị lòng tham thì chỉ có tôn giáo mới làm được, chứ tòa án, nhà tù, cả pháp trường nữa cũng không dẹp nổi lòng tham ở nơi con người. Vì vậy, mà tôi nói, tôn giáo là đồng minh đắc lực của Nhà nước trong cuộc đấu tranh bài trừ tham nhũng. Trong các tôn giáo hiện nay ở Việt Nam, Phật giáo là đồng minh đáng tin cậy nhất, một mặt vì Phật giáo đã sát cánh với dân tộc trong suốt gần 2000 năm nó tồn tại ở Việt Nam, mặt khác, nó chứng tỏ là phương thuốc đối trị tham, sân, si một cách hữu hiệu nhất,không những tham tiền, mà tham cả danh, tham lợi, tham sắc, tham ngủ nghỉ.
Chỉ có tôn giáo mới tạo cảm hứng cho nhà bác học vật lý Einstein phát biểu một tư tưởng như:
Cá nhân con người cảm nhận sự không rỗng của dục vọng và mục tiêu của con người, cảm nhận tính cao cả và trật tự tuyệt vời, tự thể hiện trong thiên nhiên cũng như trong thế giới của tư duy…(H.Gordon Garbedian. Albert Einstein, 1939.p.307).
Có cảm nhận sự không rỗng vô vị của đồng tiền, mới không còn tham tiền nữa. Có cảm nhận được sự không rỗng của danh lợi, mới có thể phát biểu như Nguyễn trãi:
Ba chục năm rồi danh tiếng hão.
Chúng ta đều biết rằng, danh tiếng của Nguyễn Trãi là danh tiếng của một khai quốc công thần, thế mà ông vẫn xem như là danh tiếng hão!
Có cảm nhận được tất cả tính không rỗng của danh lợi và quyền lực, kể cả danh lợi và quyền lực cao nhất thì Trần Thái Tông mới có câu tuyên bố lịch sử được ghi lại trong Việt sử tiên án:
Ta xem ngai vua như chiếc giày rách, vứt bỏ lúc nào cũng được.
Ngày nay, hệ tư tưởng Phật giáo không còn ngự trị trong phần lớn lòng người Việt Nam nữa, nhưng đạo Phật sẵn sàng hỗ trợ trong cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng.
_______________________
* Minh Chi . (Giáo sư tại Học viện Phật giáo VN-TPHCM). Chủ nhiệm bộ môn Triết học phương Đông và Tôn giáo học.
Nguồn: Xưa và Nay, số 95, tháng 7-2001







