Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 01/11/2007 23:30 (GMT+7)

Nghiên cứu chống bụi bằng bua nước và túi nước treo khi nổ mìn ở đường lò chuẩn bị

Hiện nay ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh, ở hầu hết các công đoạn trong dây chuyền sản xuất đều làm phát sinh, song chưa áp dụng các biện pháp phòng chống. Vì vậy, nồng độ bụi trong không khí nơi làm việc luôn vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Trong bối cảnh đó đề tài đã nghiên cứu triển khai áp dụng thử nghiệm phương pháp chống bụi bằng bua nước và túi nước treo ở một số đường lò chuẩn bị của mỏ than Giáp Khẩu, Công ty than Hòn Gai.

1. Đặc điểm các đường lò được chọn áp dụng phương pháp chống bụi

a) Một số đặc điểm của đường lò xuyên vỉa +18, vỉa 13 cánh Tây

Đường lò xuyên vỉa +18 đào trong đá với công nghệ khoan nổ mìn, xúc bốc đất đá bằng thủ công lên toa goòng và được đẩy thủ công ra ngoài.

Các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật có bản về đường lò là: Tiết diện đào: 9,1 m 2; hệ số kiên cố của đá: 6 - 8, chiều sâu lỗ khoan: 1,2 m; hệ số nổ mình: 85%; số lỗ khoan 1 chu kỳ: 28, chi phí thuốc nổ 1 chu kỳ: 12,2 kg, kíp điện vi sai: 27 cái.

b) Một số đặc điểm của đường lò dọc vỉa 14, mức +55

Đường lò dọc vỉa 14, cánh Đông, mức +55 đào trong than với công nghệ khoan, nổ mìn, xúc bốc than thủ công toa goòng loại 1 tấn đẩy thủ công ra ngoài. Các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật cơ bản về đường lò là: tiết diện đào: 7,8 m 2; chiều sâu lỗ khoan: 1,65 m; số lỗ khoan trong 1 chu kỳ: 12 lỗ; tiến độ chu kì: 1,4 m; chi phí thuốc nổ 1 chu kỳ: 4,4 kg; chi phí kíp nổ 1 chu kỳ 12 cái.

Đặc điểm chế độ bụi trong các khâu công tác khi đào lò như sau:

- Khi khoan các lỗ khoan sẽ sử dụng khoan điện và bụi phát sinh mang tính liên tục. Nồng độ bụi trong không khí, đo cách gương lò 2 m, dao động trong khoảng 10 - 17 mg/m 3.

- Bụi phát sinh ra khi nổ mìn mang tính tức thời và nồng độ trong không khí khá cao. Sau khi nổ mìn 10 phút, đo nồng độ bụi cách gương 5 m, nồng độ bụi dao động trong khoảng 8,76 - 18 mg/m 3.

- Khi xúc bốc than thủ công, nồng độ bụi ở cạnh công nhân xúc khá cao, dao động trong khoảng 16 - 22 mg/m 3.

2. Thiết kế phương pháp chống bụi khi nổ mìn nhờ bua nước và túi nước treo.

a) Bua nước

Các bua nước được chế tạo từ Polietilen, có chiều dày thành bua khoảng 0,2 mm; có chiều dài 250 - 400 mm và đường kính vào khoảng 25 - 30 mm. Các bua nước có thể nắp đậy tự động sau khi chứa đầy nước hoặc cần buộc 1 đầu hay buộc cả hai đầu.

b) Chi phí nước

Bảng 1.
Bảng 1.
Chi phí nước cần nạp vào bua tính cho 1 tấn sản phẩm có thể xác định bằng công chức thực nghiệm hoặc chọn trong bảng 1 (2).

Trong trường hợp việc nạp bua nước cho các lỗ mìn không có khả năng đảm bảo đủ lượng nước cần thiết theo tính toán, người ta có thể kết hợp các túi nước treo có dung tích lớn hoặc một số túi nước treo.

Các túi nước treo này được treo cách gương lò 1 - 2 m. Việc kết hợp các phương pháp chống bụi này một mặt làm tăng hiệu quả giảm bụi, mặt khác làm tăng hiệu quả giảm khí độc của không khí trong gương lò.

c) Chọn phương án nạp thuốc nổ và bua nước

Thuốc nổ nạp ở cuối lỗ khoan, bua nước ở giữa và ngoài cùng là bua đất sét.

d) Thiết kế chống bụi cho đường lò xuyên vỉa trong đá mức + 18, vỉa 13, cánh Tây

Bảng 2.
Bảng 2.
- Tính khối lượng đất đá khi nổ mìn. Theo thiết kế đường lò này có tiết diện đào lò là 9,1 m 2chiều sâu lỗ khoan là 1,2 m và tỷ trọng của đất đá lấy trung bình là 2,5 tấn/m3vậy trọng lượng, khối lượng đất đá trong nổ mìn là: G 1 = 9,1 m 2X 1,2 m x 2,5 T/m 3= 27,3 Tấn.

- Chọn lượng nước tiêu chuẩn:

Như số liệu đã giới thiệu trong bảng 1, để đảm bảo hiệu quả bụi khi nổ mìn thì lượng nước tiêu chuẩn cần cho 1 tấn đất đá phá vỡ ra là 1,5 lít.

- Tính tổng lượng nước cần thiết cho 1 lần nổ mìn là: 27,3 Tấn x 1,5 lít/tấn»41 lít.

- Chọn loại bua nước: Bua nước được chọn là loại chế tạo bằng polietilen, dày 0,2 mm, đường kính là 40 mm (tương đương với đường kính lỗ khoan) chiều dài là 400 mm, một đầu được dán kín, đầu kia sẽ được buộc chặt sau khi đã được rót nước vào bua.

- Lượng nước cần nạp bua cho các lỗ mìn cũng như tổng lượng nước nạp bua xem trong bảng 2.

Qua số liệu đã trình bày trong bảng 2 trên ta có tổng lượng nước tối đa có thể nạp vào các lỗ mìn là 21,89 lít. Như vậy, lượng nước còn thiếu để đảm bảo giảm bụi khi nổ mìn đến 85% là 41 lít – 21,89 lít = 19,11 lít.

- Xác định nhu cầu áp dụng bổ sung phương pháp chống bụi:

Trong trường hợp này để đảm bảo hiệu quả chống bụi khi nổ mìn cần phải sử dụng kết hợp các túi nước treo. Các túi nước treo này được treo vào khung vì chống các cách gương lò 1,5 - 2 m. Các túi chứa nước được sử dụng ở đây là các túi nilông thông thường, song phải đảm bảo là kín và chắc chắn. Chúng sẽ chứa lượng nước tối đa có thể như đã tính ở trên. Ở mỗi túi sẽ bố trí thêm 1 kíp nổ. Các kíp này được kích nổ trước khi nổ mình 1 phút.

e) Thiết kế chống bụi cho đường lò dọc vỉa trong than mức +55, vỉa 14, cánh Đông

Bảng 3.
Bảng 3.
- Tính lượng than phá ra khi nổ mìn, tương tự như lò xuyên vỉa đá ở trên ta có:

G 2= 7,8m 2x 1,6m x 1,45 T/m 3= 18,096 T (1,45 T/m 3là tỷ trọng của than)

- Tính tổng lượng cần sử dụng cho 1 lần nổ mìn là:

Q n= 18,096T x 1,51/T = 27,32 lít

- Chọn loại bua nước. Trong trường hợp này bua nước được sử dụng giống như bua nước đã dùng cho đường lò xuyên vỉa +18, vỉa 13, cánh Tây   

- Tính lượng nước tối đa có thể nạp bua cho các lỗ mìn xem bảng 3.

Như vậy, lượng nước tối đa có thể nạp cho các lỗ mìn chỉ đạt 15,45 lít và so với nhu cầy còn thiếu: 27,32 lít – 15,45 lít = 11,87 lít.

- Xác định nhu cầu áp dụng bổ sung phương pháp chống bụi bổ sung có thể được thực hiện nhờ treo thêm các túi nước trong gương lò như ở đường lò xuyên vỉa đá +18, vỉa 13.

4. Kết quả áp dụng thử nghiệm chống bụi bằng bua nước và túi nước treo

a) Kết quả áp dụng thử nghiệm phương pháp chống bụi khi nổ mìn ở đường lò dọc vỉa mức +55, vỉa 14.

Bảng 4.
Bảng 4.
Chương trình thử nghiệm về áp dụng phương pháp chống bụi khi nổ mìn nhờ nạp bua nước cho lỗ mìn và sử dụng các túi nước treo được tiến hành trong tháng 9 - 2004. Dưới đây giới thiệu một sốhình ảnh về việc triển khai quy trình chống bụi khi nổ mìn ở gương lò dọc vỉa trong than mức +55 vỉa 14, Xí nghiệp than Giáp Khẩu. Kết quả đo nhiệt độ không khí, nồng độ thành phần không khí và nồngbụi ở gương lò (Xem bảng 4).

Từ các số liệu trình bày ở bảng 4 chúng ta rút ra 1 số kết luận sau:

- Khi nổ mìn với bua nước và túi nước treo đảm bảo đầy đủ lượng nước cần thiết để chống bụi thì hầu hết nồng độ các khí độc hoặc cháy nổ đều giảm xuống.

- Nồng độ bụi trong trường hợp dùng bua nước và túi nước treo giảm rất đáng kể, từ (8,76 - 18) mg/m 3còn (1,2 - 3,1) mg/m 3có nghĩa là giảm trong khoảng (82,7 - 86,4) mg/m 3.

b) Kết quả áp dụng thử nghiệm phương pháp chống bụi khi nổ mìn ở đường lò xuyên vỉa mức +18, vỉa 13.

Bảng 5.
Bảng 5.
Chương trình thử nghiệm phương pháp chống bụi khi nổ mìn bằng bua nước kết hợp với các túi nước treo được tiến hành trong tháng 1 - 2005. Quy trình áp dụng các phương pháp chống bụi này đượctiến hành giống như ở gương lò dọc vỉa than mức +55, vỉa 14. Kết quả đo đạc các thông số về môi trường cần quan tâm được giới thiệu trong bảng 5 (1).

Từ các số liệu trình bày trong bảng 4 chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Khi nổ mìn với bua nước và các túi nước treo thì nồng độ các chất khí độc và nổ đều giảm xuống rất đáng kể.

- Nồng độ bụi trong không khí ở gương lò cũng giảm đi rất đáng kể. Cụ thể là giảm (6,1 – 10,2) mg/m 3xuống còn (0,68 – 1,87) mg/m 3, tức là trong khoảng (76,3 – 81,6)%.

Từ các kết quả nghiên cứu thử nghiệm ở trên có thể khẳng định rằng phương pháp chống bụi khi nổ mìn ở các gương lò chuẩn bị nhờ bua nước và túi nước treo có hiệu quả rất đáng kể. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện, chi phí thấp hiệu quả cao. Vì vậy, phương pháp chống bụi này cần được áp dụng phổ biến ở các mỏ than hầm lò.

Chú thích        

(1)    Trần Xuân Hà và nnk. Báo cáo tổng kết khoa học và kỹ thuật đề tài “Nghiên cứu áp dụng các giải pháp khoa học và công nghệ tổng hợp bảo vệ môi trường trong khai thác, sàng tuyển, chế biến, tàng trữ và vận chuyển than”. Tập I. Thuyết minh chung, Hà Nội, tháng 11 - 2005.

(2)    A. A. Bôikô và nnk. Sổ tay tóm tắt của cán bộ kỹ thuật mỏ. NXB KH & KT, Hà Nội, 1971.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.