Năm Tân Dậu (1861) Pháp có tấn công Đà Nẵng?
Sách Việt Nam sử lượccủa Trần Trọng Kim (Tập II, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn 1968, tr 254) đã ghi chép sự kiện đó khá cụ thể ... “Tháng 7 năm Mậu Ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, hải quân trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và I - Pha - nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3000 quân của hai nước vào Đà Nẵng, bắn phá các đồn luỹ, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải...”.
Thế nhưng, cũng trong sách này, ở chương sau (chương VIII, phần số 4,: Giặc tên Phụng, tr 269); tác giả đã viết như sau:
“Năm Tân Dậu (1861), quân nước Pháp và nước Y - pha - nho sang đánh Quảng Nam ( tức Đà Nẵng - TTT), có mấy người ở Bắc kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ Văn Phụng, trước đã theo giáo sĩ ngoại quốc đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng Nam ...”
Như thế có nghĩa là phải chăng 3 năm sau khi đánh chiếm cảng Đà Nẵng, Pháp lại tấn công vào Đà Nẵng lần thứ hai vào năm 1861? Và lần này do tướng Charner chỉ huy?
Lần giở lại chặng đường tiến quân xâm lược của thực dân, trong khoảng thời gian sau khi tiếng súng đầu tiên của chúng nổ vào cửa bể Đà Nẵng, ta thấy không có tài liệu nào ghi chép vào năm Tân Dậu (1861) quân Pháp do tướng Charner chỉ huy đánh chiếm Quảng Nam như sách Việt Nam sử lượcđã ghi. Theo tài liệu của Nguyễn Khắc Ngữ ghi lại trong cuốn 100 năm ngày Pháp chiếm Nam kỳ(Nxb Trình bày, Sài Gòn, 1967, tr 110) thì sau khi đánh vào cảng biển Đà Nẵng, Rigault de Genouilly đợi mãi không thấy tín đồ công giáo nổi dậy hưởng ứng, nên có hỏi giáo sư Pellerinn, ông này trả lời là muốn cho họ có dịp nổi dậy phải cho tàu ra vịnh Bắc kỳ; Genouilly đã hai lần cho tàu Catinat và tàu Primanget ra Bắc mà không thấy có triệu chứng gì, vì thế đã thay đổi chiến lược, đem quân vào đánh miền Nam.
Theo tài liệu của Alfred Schreiner viết trong cuốn Đại Nam Quốc lược sử,Sài Gòn, 1905, thì sáng sớm ngày 17 - 2 - 1859, quân Pháp bắt đầu tấn công thành Gia Định, quân triều đình do thượng thư Bộ Hộ là Tôn Thất Hiệp chỉ huy chưa kịp vào đến thì thành đã bị hạ. Ở Gia Định, quân Pháp đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân Gia Định. Chỉ huy quân Pháp trong thời gian chúng chiếm thành Gia Định vẫn là Genouilly. Sau đó, vì lực lượng quân Pháp không đủ để chiếm giữ và bành trướng cả hai nơi, nên Genouilly đã quyết định để lại một lực lượng nhỏ ở Gia Định, còn tất cả lại kéo ra Đà Nẵng. Chỉ huy đoàn quân trở ra Đà Nẵng lần này là Rigault de Genouilly. Ngày 8 - 5 - 1859, quân Pháp đến trước các đồn Phước Minh và Thạc Giản chia quân tấn công đồn. Sau đó chúng tiến đánh đồn Duy Xuyên, chỉ huy quân Nam là Hiệp quản Phan Hữu Điển ra sức chống cự bị trúng đạn chết, đồn bị hạ. Tướng Nguyễn Tri Phương phải lui quân về giữ đồn Nại Hiên và Liên Trì. Tuy nhiên, quân Pháp ở Gia Định lúc bấy giờ đang bị quân của Thống đốc Tôn Thất Hiệp chỉ huy bao vậy chặt, chúng “suýt bị chết đói nếu không có sự tiếp viện kịp thời của giáo dân...” (Theo Thập giá và lưỡi gươm, LM, Trần Tam Tỉnh, Nxb Trẻ, 1988, tr 39). Còn ở Đà Nẵng thì quân Pháp bị thiếu thốn và bị dịch bệnh do thời tiết rất nhiều, trước tình hình khó khăn đó, đến đầu tháng 11 năm 1859, Genouilly từ chức. Nhận nhiệm vụ thay thế là phó Đô đốc Page. Ông này sang Việt Nam để xin cầu hoà vì thời điểm đó Pháp đang cần can thiệp vào Trung Quốc, vì thế chính phủ Pháp đã ra lệnh rút quân ra khỏi Đà Nẵng, chỉ để lại một lực lượng độ 800 quân do tướng D’Aries chỉ huy để giữ đồn Hữu Bình và một số đồn phụ khác, rồi tất cả kéo sang Trung Quốc.
Như thế, những cuộc giao chiến giữa quân ta và quân Pháp ở cảng biển Đà Nẵng chỉ diễn ra từ cuối tháng 8 năm 1858, đến tháng 2 năm 1860. Còn việc quân Pháp đánh Quảng Nam vào năm 1861 thì không có tài liệu nào ghi chép cả và việc chỉ huy là do tướng Charner thì lại càng bất hợp lý.
Để thực hiện mưu đồ xâm chiếm các vùng lãnh thổ ở Gia Định, đầu tháng 2 năm 1861 (ngày 7 - 2 - 1861), hoàng đế Pháp đã cử Đô đốc Charner sang Gia Định làm Tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Nam kỳ (Đại Nam Quốc lược sử, tr 272). Sau khi đến Gia Định, Charner đã cho tăng cường quân để bao vây đồn Chí Hoà của quân ta; và đến ngày 24 tháng 2 năm đó, chính y đã chỉ huy quân Pháp và Tây Ban Nha tấn công vào Đại đồn Chí Hoà (Gia Định). Quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Hiệp, Phạm Phú Thứ ra sức chống cự. Sau 2 ngày đêm tấn công, quân Pháp hạ được thành, Nguyễn Tri Phương đành rút quân về Thuận Kiều. Sau khi Đại đồn Chí Hoà thất thủ, Pháp đã mở rộng xâm chiếm sang các tỉnh lân cận. Chỉ huy tất cả các cuộc xâm chiếm này vẫn là tướng Charner. Ở tất cả các nơi Pháp chiếm đóng, chúng đã gặp sự kháng cự rất dũng mãnh của nhân dân. Các cuộc khởi nghĩa Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở vàm Nhật Tảo là những cuộc đấu tranh tiêu biểu. Cũng theo Schreiner thì đến ngày 30 tháng 11 năm 1861 Charner xin nghỉ, Pháp cử Bonnard sang thay.
Trong các tài liệu của Pháp cũng như của triều đình Huế, trong khoảng thời gian đó không thấy tài liệu nào ghi lại sự kiện năm Tân Dậu (1861) quân Pháp và Y - pha - nho do tướng Charner chỉ huy tấn công vào Quảng Namnhư sách Việt Nam Sử lượcđã ghi chép.
Nguồn: Xưa & Nay, số 296, 11 - 2007, tr 24