Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 09/06/2011 21:06 (GMT+7)

Một số giải pháp chuẩn bị kỹ thuật phòng tránh ngập lụt tại các đô thị khu vực cửa sông ven biển

Quá trình phát triển đất nước có nhiều đô thị vừa nằm ở gần cửa sông, vừa nằm ở bờ biển. Chế độ hải văn ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới đời sống tại các đô thị này.

1. Đôi nét thực trạng ngập lụt đô thị do nước biển dâng

Chúng ta đều biết đô thị bị ngập lụt do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như do lũ từ sông tràn vào đô thị, do mưa lớn tại các đô thị gây quá tải hệ thống thoát nước, do thủy triều dâng gây ngập úng, do sóng thần tràn qua đo thị… Các đô thị bị ngập lụt lâu làm cho các hoạt động kinh tế - xã hội ở các đô thị bị đình trệ thiệt hại về người và của là rất đáng kể. Chúng ta đang tìm mọi cách, mọi giải pháp kỹ thuật cũng như quản lý nhằm làm giảm thiệt hại do ngập úng đô thị.

Theo logic thông thường các đô thị gần sông gần biển phải dễ thoát nước, khó có thể ngập lụt. Nhưng trên thực tế, nhiều đô thị nằm ở cửa sông ven biển lại chịu nhiều trận lụt lớn, kéo dài gây thiệt hại to lớn về người và của.

Chẳng hạn, thành phố Tuy Hòa là đô thị cửa sông Đà Rằng và bên bờ biển Đông nhưng bị ngập lụt liên tiếp trong thời gian dài gây hậu quả nghiêm trọng (năm 2003, 2005, 2008, 2009…); Đô thị cổ Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn, gần cửa Đại, gần bờ biển nhưng cũng bị ngập lụt liên miên, ảnh hưởng sâu sắc đến công tác bảo tồn di sản văn hóa; thiệt hại lớn về ngành du lịch; Thành phố Hồ Chí Minh cũng liên tục bị ngập lụt do triều cường, gây hậu quả xấu tới hoạt động đô thị.

Tại các đô thị cửa sông ven biển, hiện tượng ngập lụt chủ yếu do tác động (trực tiếp hay gián tiếp) của hiện tượng nước biển dâng do triều cường, do áp thấp nhiệt đới, do bão, do hải lưu hay do biến đổi khí hậu. Hậu quả từ các trận lụt này là đáng kể; Nhiều trận lụt lớn gây thiệt hại về người, làm đắm tàu thuyền, hủy hoại các công trình cửa sông ven biển (đê, kè…) và đặc biệt nó làm cho mọi hoạt động ở đô thị bị ngưng trệ, gián đoạn, bệnh tật, nhà đổ, cây chết…

2. Một số cơ sở tự nhiên, kinh tế - xã hội

Khu vực cửa sông ven biển là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển cho nên đã phát triển trong mối quan hệ giữa các quá trình địa mạo trên đất liền mà chủ yếu ở đây là quá trình bồi tụ của sông ngòi và các quá trình địa mạo do sóng, do thủy triều và hải lưu, ngoài ra ở đôi nơi có thêm sự tham gia của sinh vật, của gió. Địa hình khu vực này chủ yếu phụ thuộc vào quá trình bồi tụ của sông và quá trình mài mòn của sóng. Trên mỗi đoạn bờ biển nước ta có những đặc điểm địa hình riêng biệt, nơi thì tạo thành các bãi triều do thủy triều đã san khối phù sa cửa sông (khu vực bờ biển phía Bắc), nơi thì địa hình khúc khủy và dốc ít phù sa (Khu vực Miền Trung), nơi thì thủy triều lên mạnh, triều tiến xa vào trong đất liền khiến lòng sông sâu, dễ sạt lở (TP Hồ Chí Minh)…

Chế độ thủy triều ven biển Việt Nam rất đặc biệt và có sự phân hóa mạnh. Biển Việt Nam thường thấy chế độ nhật triều đều và không đều, hiện tượng hiếm thấy trên thế giới thì ở đây lại hoạt động mạnh. Cao độ triều cường biến động mạnh từ 1,20m ( Đà Nẵng, Hà Tiên) đến 3,30m (Thanh Hóa) và 4,20m (Cà Mau). Ở duyên hải Miền Trung do thềm lục địa thắt lại, biển sâu nên thủy triều không cao.

Nguyên nhân nước biển dâng do sóng cũng cần được quan tâm đúng mức, đặc biệt là khi có bão. Trong mùa gió Đông Băc, tốc độ gió lớn, nên sóng cũng nhiều và lớn hơn trong mùa gió Tây Nam . Sóng gió và sóng lừng từ hướng Đông Bắc tới và vỗ mạnh vào bờ biển nước ta nhất là ở Trung Bộ. Mùa gió Tây Nam tuy sóng nhỏ, nhưng khi có bão thì sóng rất lớn. Lúc gió bão đạt tốc độ 200km/h thì sóng có thể cao 18m. Nơi nhiều sóng và sóng lớn nhất là duyên hải Trung Bộ.

Để hạn chế thiên tai do nước biển dâng, chúng ta đã có nhiều biện pháp phòng chống ngập lụt tại các đô thị cửa sông ven biển. Các giải pháp thường được ứng dụng từ xưa đến nay là đắp đê, kè ven biển, cống ngăn triều, tôn nền khu đất xây dựng… Các giải pháp này đã phát huy hiệu quả đáng kể trong việc phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, ở một số trường hợp cũng chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, đê biển bị sóng đánh vỡ gây hậu quả không nhỏ cho đô thị. Kè bờ bị sóng cuốn trôi và chưa có công trình nào có thể ngăn nổi sóng thần, sóng lừng. Vấn đề đang dừng lại ở qui mô đầu tư tri thức, đầu tư kinh tế, đầu tư sức của để giảm bớt thiệt hại do thiên tai nước dâng ven biển.

3. Giải pháp tạo hồ điều hòa trước biển

Đứng trước nguy cơ nước biển dâng cao, gây nhập úng cho các đô thị, chúng ta cần tìm giải pháp hữu hiệu nhằm phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai do hiện tượng trên. Tác giả đề xuất giải pháp xây dựng hồ điều hòa trước biển nhằm điều tiết cao độ mực nước biển tiếp xúc trực tiếp với đô thị. Hồ điều hòa trước biển có thể rộng từ vài trăm km 2đến hàng ngàn km 2. Căn cứ vào điều kiện địa hình đô thị, địa hình cửa sông ven biển và địa hình đáy biển ven bờ, chúng ta có thể hình thành hồ điều hòa theo 2 dạng cơ bản: Hồ nước mặn và hồ nước ngọt.

a/ Hồ nước mặn

Trường hợp bờ biển khúc khủy, đáy biển nông thì có thể chọn giải pháp đắp đê nối qua biển tạo ra hồ chứa nước mặn. Đê được xây dựng vững chắc từ đáy biển và có cống ngăn triều. Khi nước biển dâng thì ảnh hưởng trực tiếp vào đô thị. Lúc này hồ nước mặn là nơi chứa tạm nước sông dồn về. Khi mực nước hồ cao hơn mực nước biển thì các cống ngăn triều lại mở ra để thoát nước ra biển. Khả năng điều tiết phụ thuộc vào lưu lượng nước sông, diện tích và cao độ mực nước hồ, khả năng làm việc của các cống ngăn triều. Hiệu quả phòng tránh và giảm nhẹ thiên tại phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế kỹ thuật và mục tiêu đề án.

b/ Hồ nước ngọt

Đối với khu vực có địa hình bồi tích do sóng biển, gió và hải lưu thường tạo nên những dải cồn cát là sông hoặc dải đất trũng hình thành đầm, phá chứa nước ngọt. Tận dụng địa hình này chúng ta có thể tạo hồ điều hòa (chứa nước ngọt) trước biển nhằm hạn chế thiên tai do nước biển dâng. Lòng hồ bao gồm diện tích đầm phá tự nhiên và vùng đất trũng lân cận. Cống ngăn triều được đóng khi nước biển dâng, lưu lượng nước sông chứa tạm thời ở hồ nước ngọt được tạo ra bởi đê biển. Khi mực nước biển hạ thấp hơn mực nước ở sông thì cống ngăn triều lại được mở để thoát nước sông ra biển.

Giải pháp điều hòa nước trước biển là khá tốn kém kinh phí đầu tư đối với hồ nước mặn và khá tốn diện tích đất đai đối với hồ nước ngọt nhưng nó vừa phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai ngập lụt do nước biển dâng, vừa tạo được hệ sinh thái mới (sinh thái ngập nước) có tác dụng tích cực tới môi trường, đồng thời là giải pháp dự trữ nước ngọt nếu xây dựng hồ chứa nước ngọt.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.