Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/07/2011 21:09 (GMT+7)

Mối liên hệ giữa văn hóa và khoa học xã hội nhân văn trong thời đại ngày nay

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ, việc có được nền văn hóa tiên tiến hay không, và nền văn hóa ấy có thực sự thúc đẩy sự phát triển xã hội hay không sẽ liên quan đến sự tồn vong của một quốc gia, một dân tộc và một chính đảng. Trong khi đó khoa học xã hội và nhân văn là bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong chiến lược phát triển đất nước và sự nghiệp CNH, HĐH.

1. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và vai trò của văn hóa trong phát triển

Trong cấu trúc chỉnh thể của một hình thái xã hội, bốn phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội luôn gắn bó, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau không thể tách rời. Trong chính thể hữu cơ này, kinh tế là cơ sở vật chất của chính trị, và văn hóa, chính trị là thể hiện tập trung và bảo đảm căn bản của kinh tế, văn hóa là sản phẩm tất yếu và là động lực tinh thần của kinh tế và chính trị.

Trong kết cấu xã hội, văn hóa chủ yếu thuộc về kiến trúc thượng tầng. Theo quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, văn hóa một mặt là sự phản ánh của kinh tế, chính trị, xã hội, mặt khác có tác động trở lại to lớn đối với kinh tế, chính trị và xã hội. Nền văn hóa tiên tiến là sự phản ánh cơ bản của kinh tế, chính trị, xã hội tiên tiến, phù hợp với lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân, nhất trí với phương hướng phát triển xã hội, có tác dụng thúc đẩy tích cực cho phát triển kinh tế, tiến bộ chính trị của xã hội. Ngược lại, văn hóa lạc hậu là sự phản ánh cơ bản của kinh tế, chính trị xã hội lạc hậu, đi ngược lại lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân, ngược lại với phương hướng phát triển xã hội, cản trở sự phát triển kinh tế, tiến bộ chính trị xã hội. Vì thế, có thể nói, quá trình phát triển của văn hóa loài người chính là quá trình đấu tranh của văn hóa tiên tiến với văn hóa lạc hậu.

Nhìn một cách tổng quát, tác dụng của văn hóa trong phát triển xã hội loài người chủ yếu biểu hiện ở bốn mặt: một làghi chép, lưu giữ, gia công và truyền nối, kế thừa tin tức; hai làảnh hưởng, ràng buộc hoạt động nhận thức và kết quả nhận thức của mọi người; ba làđiều hòa, kiểm soát thực tiễn xã hội và quan hệ giữa người với người; bốn là vượt lên tính hạn chế của hiện thực, sáng tạo ra thế giới quan niệm và thế giới lý tưởng mới. Loài người tại sao có thể nhận thức và hiểu biết về quá trình phát triển cũng như thay đổi của lịch sử? Tại sao có thể không ngừng tích lũy và mở rộng các loại tri thức về tự nhiên, xã hội và bản thân con người, đồng thời tiến vào các lĩnh vực mới, chưa hề biết? Tại sao có thể không ngừng điều tiết quan hệ lẫn nhau giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội và giữa con người với con người, tránh được sự bị hủy diệt từ nhiều phía khác nhau? Tại sao có thể không những căn cứ vào tiêu chuẩn của tự nhiên mà còn biết căn cứ vào tiêu chuẩn của con người để thay đổi thế giới, sáng tạo ra thế giới mới mẻ chưa từng có trong lịch sử? Tất cả đều gắn liền với văn hóa, nhất là văn hóa tiên tiến. Điều đó cũng có thể thấy rất rõ trong lịch sử văn hóa dân tộc ta. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định, chúng ta chiến thắng những kẻ thù hùng mạnh không phải vì chúng ta hơn kẻ thù về súng đạn, về khoa học kỹ thuật mà chiến thắng của chúng ta là chiến thắng của văn hóa. Ý thức được sức mạnh của văn hóa, ngay từ Đề cương về văn hóa Việt Namnăm 1943, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, XHCN với phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Đây cũng là cơ sở vững chắc cho phương châm xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong đường lối văn hóa của Đảng ta sau này.

Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích và dự báo khoa học về sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại, vận dụng linh hoạt luận điểm của Mác: "Khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất", Đảng ta đã đề ra chủ trương "giáo dục là quốc sách", khẳng định mục tiêu quan trọng của giáo dục là hướng tới CNH, HĐH. Khẳng định xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy đào tạo công dân có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật làm mục tiêu phát triển văn hóa XHCN, dân tộc, khoa học, đại chúng, hướng tới hiện đại hóa, hướng ra thế giới. Theo tinh thần ấy, văn hóa là sức mạnh quan trọng, tụ hội và khích lệ toàn dân, là tiêu chí quan trọng hợp thành sức mạnh tổng hợp đất nước. Quan điểm văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế - xã hội đã được Đảng ta nhiều lần khẳng định. Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, lạc hậu. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân".

Trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa, chính trị đa cực và kinh tế tri thức đang trên đà phát triển, văn hóa đã trở thành tài nguyên chiến lược quan trọng và quý báu đối với sự sinh tồn, phát triển của một quốc gia, một dân tộc và một chính đảng, trở thành nhân tố căn bản nâng cao toàn bộ tố chất dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Điều đó đòi hỏi hơn lúc nào hết, chúng ta phải biết xuất phát từ mục tiêu xây dựng xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" để nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp bách của việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hùng mạnh.

2. Coi trọng tầm quan trọng của khoa học xã hội nhân văn trong phát triển

Khoa học xã hội nhân văn là bộ phận hợp thành quan trọng của văn hóa loài người. Mác từng dự đoán: "Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội sẽ thâm nhập vào nhau. Đó sẽ là một khoa học - khoa học về con người". Trong thời đại kinh tế tri thức, một xu hướng hết sức nổi bật là xu hướng nghiên cứu khoa học có tính chất liên ngành. Xu hướng này cho thấy sự thâm nhập lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến con người và xã hội hiện đại. Khoa học xã hội nhân văn cần phải áp dụng những công cụ, phương pháp thực chứng và biện pháp kỹ thuật của khoa học tự nhiên; khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên cần phải có tinh thần nhân văn, môi trường nhân văn và sử dụng cả những thành quả của khoa học xã hội nhân văn.

Đã có thời kỳ, chúng ta thiên lẹch, chỉ coi trọng khoa học tự nhiên mà chưa chú ý đúng mức đến khoa học xã hội, nặng nề phát triển kỹ thuật, coi nhẹ tinh thần nhan văn. Đến nay, chúng ta đã có điều chỉnh quan trọng trong nhận thức: tiến bộ toàn diện xã hội chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở phát triển cân đối nhịp nhàng giữa văn minh vật chất và văn minh tinh thần, hiện đại hóa của xã hội là hiện đại hóa cả kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Không tăng cường xây dựng văn minh tinh thần, thì văn minh vật chất sẽ nhanh chóng bị phá hỏng. Trong thực tế thời gian trước đây, một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là coi nhẹ giáo dục chính trị tư tưởng tiến bộ và nhân văn.

Con người sống trong hai môi trường cơ bản, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, đối mặt với hai loại mâu thuẫn chính: con người với tự nhiên và con người với xã hội, con người với con người. Trong quá trình giải quyết những mâu thuẫn này, dần dần hình thành khoa học tự nhiên lấy các loại vật chất và hiện tượng của giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu; khoa học xã hội nhân văn lấy các hiện tượng xã hội và hoạt động tinh thần làm đối tượng nghiên cứu. Dẫu có khác nhau về các lĩnh vực và phương pháp nghiên cứu, nhưng cả khoa học xã hội nhân văn và khoa học tự nhiên đều vì lợi ích chung của con người. Vì thế, mặc dù không thể thay thế được nhau, nhưng chúng có khả năng bổ sung và hợp tác chặt chẽ, hiệu quả. Quan niệm nhấn mạnh loại khoa học này và coi nhẹ loại khoa học khác, tự nó đã cho thấy sự phiến diện trong nhận thức, không phù hợp với trào lưu phát triển của văn hóa trong thời đại kinh tế tri thức.

Trong thời đại ngày nay, dường như không còn sự tách bạch quá rạch ròi giữa cái gọi là tự nhiên, xã hội mà trước mắt chúng ta là một hệ thống thực tiễn tự nhiên - xã hội phức tạp. Xu thế nổi bật của khoa học hiện đại là tính chỉnh thể, tính tổng hợp và tính hợp tác, thể hiện sự thẩm thấu và hòa nhập giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội nhân văn. Việc khoa học tự nhiên chỉ biết lấy quy luật tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu độc lập, hay khoa học xã hội nhân văn lấy quy luật xã hội loài người làm đối tượng nghiên cứu chuyên biệt xem ra đều không thể đảm nhiệm đầy đủ nhiệm vụ nhận thức thế giới khách quan, không đủ sức giải quyết được hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng gặp phải trong quá trình phát triển tự do của con người và tiến bộ toàn diện của xã hội. Ở đây ta chứng kiến có sự thẩm thấu nhiều cấp độ: sự thẩm thấu, tương tác giữa nội bộ các bộ môn nghiên cứu trong từng ngành khoa học và ở mức độ lớn hơn, giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Anh xtanh từng nói: "Khoa học dù vĩ đại, nhưng nó chỉ có thể trả lời vấn đề "thế giới là gì", còn mục tiêu giá trị "phải như thế nào lại ở ngoài phạm vi tầm nhìn và chức năng của nó". Bởi vậy, khi quan niệm "khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất" cũng có nghĩa là phải coi "kho học" đương nhiên phải bao gồm khoa học xã hội. Nói khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn vừa có tính độc lập tương đối, vừa gắn bó, kết hợp không thể chia cắt là vì thế.

Xu thế giao thoa, thẩm thấu và hòa nhập của khoa học tự nhiên với khoa học xã hội nhân văn không phải là ngẫu nhiên. Chẳng hạn nếu nói khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật đã phát huy tác dụng ra sao về mặt cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao động, nâng cao kỹ năng của người lao động, thì khi đề cập tới các vấn đề như cân đối và bố trí hợp lý yếu tố sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phân phối hợp lý kết quả sản xuất,… chúng ta đã bước sang địa hạt của khoa học xã hội nhân văn. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện của thời đại kinh tế tri thức với số hóa, mạng hóa… là đặc trưng chủ yếu, chúng ta đang chuyển từ coi trọng phần cứng sang coi trọng phần mềm, theo đó, công năng sản xuất của khoa học xã hội nhân văn cũng được đặt ra. Vì khoa học xã hội nhân văn liên quan đến hàng loạt vấn đề: làm rõ sự phải trái, đúng sai trong quan niệm, cung cấp định hướng giá trị, đánh giá quy hoạch chính sách, giảm thiểu tính không xác định và quy phạm hành vi xã hội của con người… Tại nhiều quốc gia, khoa học xã hội nhân văn đã được vận dụng rộng rãi vào công tác quy hoạch chiến lược về phát triển kỹ thuật, kinh tế, xã hội và định ra chính sách của chính phủ, trở thành cơ sở trí lực không thể thiếu được của chỉ đạo khoa học hóa quản lý xã hội.

Trong công cuộc xây dựng CNXH, khoa học xã hội nhân văn đóng vai trò rất quan trọng. Xa rời khoa học xã hội nhân văn sẽ rất khó nắm được quy luật phát triển của xã hội. Việc xây dựng hiện đại hóa đất nước gắn liền với một hệ thống cực kỳ phức tạp, đề cập tới nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật, kinh tế, chính trị và xã hội… Chỉ có tiến hành nghiên cứu tổng hợp, bao quát được khối lượng tư liệu lớn, tìm ra quy luật phát triển, chúng ta mới đề ra được chiến lược phát triển phù hợp. Thực tiễn hơn 25 năm đổi mới đất nước đã chứng minh khoa học xã hội nhân văn góp nhiều thành tựu trong việc đề xuất lý luận phát triển và tư vấn chính sách nhằm tháo gỡ, giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình hiện đại hóa, như xây dựng kinh tế thị trường thế nào là phù hợp, thực hiện chế độ cổ phần ra sao, chiến lược khoa học giáo dục đất nước theo hướng nào là hiệu quả, triết lý xây dựng đất nước ra sao để không đi chệch mục tiêu XHCN… Vì thế, trong thành tựu chung của đất nước thời kỳ đổi mới, cần đánh giá đúng những cống hiến của ngành khoa học xã hội và ngành khoa học tự nhiên, nhìn thấy được sức mạnh gắn kết và thẩm thấu của hai bộ phận này. Thiết nghĩ, chính sự kết hợp và thẩm thấu giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn là sự biểu thị đầy đủ nhất cho nội hàm khái niệm "khoa học" trong thời đại kinh tế tri thức.

3. Thúc đẩy mạnh mẽ phát triển khoa học xã hội nhân văn trong thời kỳ mới

Từ cuối thế kỷ XX, có một sự thật là nhiều nước phát triển đã lợi dụng ưu thế của họ trong tiến trình toàn cầu hóa để không chỉ khống chế về kinh tế, mà còn sử dụng các phương thức xuất khẩu văn hóa và quan niệm giá trị của họ nhằm áp chế các nước đang phát triển. Vấn đề đặt ra với chúng ta là phải biết lựa chọn, sàng lọc lấy những tinh hoa văn hóa nhân loại, để từ đó thúc đẩy khoa học xã hội nhân văn phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng.

Thứ nhất, phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, là gốc rễ để xây dựng nền khoa học xã hội nhân văn nước ta thực sự hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam đương đại, là cốt lõi và linh hồn của văn hóa dân tộc trong thời đại ngày nay. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều phức tạp, nhiều tư tưởng độc hại du nhập vào nước ta bằng nhiều hình thức khác nhau. Do vậy phải ngăn chặn, đấu tranh để giữ gìn và xây dựng nền văn hóa lành mạnh, giàu tinh thần nhân văn, đó cũng là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân. Trong phát triển văn hóa, phải coi trọng ý nghĩa kiểm định chân lý trong phát triển là phải gắn bó, xuất phát và phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với lợi ích phát triển của dân tộc.

Thứ hai, văn học nghệ thuật phải kiên trì phương hướng vì nhân dân phục vụ, vì lý tưởng mà Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị đã nêu lên yêu cầu phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh, chúng ta phải xây dựng một nền văn học nghệ thuật đa dạng, phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần phong phú của nhân dân. Đây cũng là phương hướng phát triển khoa học xã hội nhân văn ở nước ta hiện nay. Một mặt, khoa học xã hội nhân văn phải thể hiện được những định hướng về tư tưởng chính trị của Đảng, mặt khác, phải tăng cường hơn nữa tính khoa học, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng văn minh, hiện đại. Kiên trì phương châm đa dạng hóa trong sáng tác văn học nghệ thuật, tạo dựng môi trường sáng tạo rộng thoáng, hài hòa cho văn nghệ sĩ, cho phép tồn tại nhiều trường phái khoa học và bảo đảm tự do về học thuật là yêu cầu hết sức quan trọng. Những vấn đề đúng sai, phải trái trong nghệ thuật, khoa học, phải được thông qua sự tìm tòi thảo luận của giới nghiên cứu và thông qua thực tiễn của nghệ thuật và khoa học để giải quyết.

Thứ ba, phải hướng tới hiện đại hóa, hòa nhập sâu hơn nữa với thế giới, hấp thụ và học tập đầy đủ thành quả văn hóa tiên tiến nhân loại. Sự phát triển của văn hóa nước ta không thể tách rời thành quả chung của văn minh nhân loại. Văn hóa Việt Nam đương đại là nền văn hóa hướng ra thế giới, giao lưu và hấp thụ những tư tưởng và thành quả văn hóa ưu tú của nhân loại để làm giàu có hơn văn hóa của dân tộc, tạo động lực cho văn hóa dân tộc phát triển mạnh mẽ. Mặc dù thu được nhiều thành tựu to lớn trong 25 năm đổi mới, nhưng phải thừa nhận, về nhiều phương diện, khoa học xã hội nhân văn nước ta vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn so với nhiều nước phát triển. Vì thế, thông qua giao lưu và trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu khoa học xã hội, tiếp thu những phương pháp nghiên cứu mới, những tri thức khoa học hiện đại trên cơ sở phát huy những truyền thống quý bảu của một dân tộc hiếu học và sáng tạo, đã và đang trở thành đòi hỏi gắt gao đối với tất cả đội ngũ nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn ở nước ta.

Thứ tư, phải kiên trì tư tưởng đổi mới, đổi mới triệt để và toàn diện, không ngừng đổi mới về nhận thức lý luận để hoàn chỉnh triết lý và chiến lược phát triển sát hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thế giới đương đại. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nếu chỉ kế thừa và học tập di sản văn hóa ưu tú của dân tộc và nhân loại thì chưa đầy đủ. Phải biết xuất phát từ thực tiễn đất nước, kết hợp lý luận với thực tiễn đổi mới đất nước để quá trình đổi mới diễn ra liên tục, khiến cho văn hóa không ngừng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cần phải kiên trì đổi mới, mạnh dạn tìm kiếm những lý luận mới trên cơ sở nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn, dám phá bỏ những định luận không thích ứng với sự phát triển của thực tiễn mới. Đây cũng là định hướng quan trọng để khoa học xã hội nhân văn nước ta không ngừng phát triển.

Thứ năm, phải không ngừng nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố chất văn hóa khoa học của toàn dân tộc, chú trọng việc giáo dục "tinh thần nhân văn" song song với việc giáo dục "tinh thần khoa học". Sự khác biệt của khoa học xã hội nhân văn so với khoa học tự nhiên là ở chỗ nó không những là một hệ thống tri thức, hệ thống khoa học, hệ thống văn hóa có thể thực chứng được mà còn là một hệ thống tư tưởng, lý tưởng, hệ thống giá trị, hệ thống đạo đức phi vật thể hóa. Nếu nói về sức sản xuất thì khoa học kỹ thuật có nhiệm vụ xây dựng văn minh vật chất XHCN, còn văn hóa tiên tiến có nhiệm vụ xây dựng văn minh tinh thần XHCN. Để làm tốt điều đó, phải không ngừng nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng toàn dân tộc, phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề mới của đời sống xã hội, nghiên cứu đặc điểm mới trong hoạt động tư tưởng con người, nhạy bén nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, tạo lập thế giới quan và nhân sinh quan lành mạnh, xây dựng hệ thống giá trị tiến bộ, hình thành hệ thống đạo đức nhân văn phù hợp với nền kinh tế thị trường XHCN, chống lại những tư tưởng phi nhân, xa lạ với sự phát triển lành mạnh của xã hội ta.

Thứ sáu, phải coi trọng thực tiễn mới và phát triển mới, kịp thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn phát triển. Hiện nay, chúng ta đang đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp: làm thế nào hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hành nền dân chủ XHCN ra sao để đạt hiệu quả thực sự, hoàn thiện thể chế văn hóa mới sao cho hiệu quả, làm thế nào để phát triển kinh tế không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, làm sao để chống lại thói vô cảm, giải quyết những vấn đề toàn cầu sao cho phù hợp với lợi ích quốc tế và lợi ích dân tộc… Tất cả những vấn đề trên đây đòi hỏi sự nghiên cứu và tư vấn chính sách hiệu quả của ngành khoa học xã hội ở nước ta. Chỉ một khi chú ý giải quyết chính xác những vấn đề đang nảy sinh trong thực tiễn đổi mới bằng tầm nhìn thế kỷ và thiên niên kỷ, lúc đó, chúng ta mới bảo đảm cho sự phát triển thực sự bền vững, lâu dài của đất nước.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.