Lưu trữ Việt Nam 1945
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), tình hình chính trị ở Đông Dương ngày càng trở lên phức tạp. Ngoài mặt, chính phủ Nhật hoàng vẫn tỏ ra “không có tham vọng về đất đai đối với Đông Dương” và “tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ bằng tất cả mọi phương tiện dân tộc Việt Nam đã từ bao lâu dưới chính quyền áp chế và hằng trông ngóng cái ngày đạt mục đích cuộc độc lập quốc gia xứng đáng với danh hiệu của từ ấy” (1). Để khẳng định thêm “thiện chí” của mình, ngày 18-5-1945, trước Hoàng đế Việt Nam, Tổng Tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương đã phát biểu:
“Chúng tôi không khi nào nghĩ đến việc tham dự vào chính sách nội trị của nước Việt Nam độc lập nếu chính sách ấy không trở ngại cho kế hoạch hành binh của quân đội Nhật”(2).
Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Hệ thống chính quyền ở Đông Dương vẫn được giữ nguyên, chỉ thay thế người Pháp bằng người Nhật dưới danh nghĩa cố vấn:
Trong phông Toà Đốc lý Hà Nội (fonds de la Mairie de Hanoi) hiện nay còn một số lớn tài liệu thể hiện sự can thiệp của người Nhật vào công việc nội trị của Việt Nam trong thời kỳ này. Nhật nắm giữ quyền cai quản các cơ quan quan trọng như Sở Liêm phóng; Sở Thông tin Tuyên truyền và Báo chí Bắc kỳ, một phần Sở Thông tin Tuyên truyền và Báo chí Trung ương, Sở Kiểm duyệt, Nha Học chính, Nha Kiểm soát Tài chính và Sở Kho bạc Bắc bộ. Ở Hà Nội, từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1945, tất cả các giấy tờ của thành phố đều do Maruyama ký với chức danh là Quyền Đốc lý.
Quá trình thải hồi các nhân viên người Pháp được diễn ra một cách từ từ trong ba tháng nhưng chính thức được thi hành từ ngày 18 tháng 4 năm 1945, theo công điện ngày 19 tháng 4 năm 1945 của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương gửi các Quản thủ viên lưu trữ tại Huế, Sài Gòn, Phnom-pênh. Kể từ ngày này, Giáo sư S. Kudo chính thức chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, Paul Boudet chỉ được giữ lại dưới danh nghĩa là cố vấn. Trước ngày 18 tháng 4, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương chịu sự kiểm soát của Trung tá Kamiya và Đốc lý Hà Nội là Syogaybu (4). Tiếp đó theo đề nghị của Giám đốc S. Kudo ngày 28 tháng 5 năm 1945, bằng hai Nghị định toàn quyền Đông Dương mới đã quyết định chỉ giữ lại ba viên chức người Pháp làm việc tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương như là những cố vấn bên cạnh Giám đốc người Nhật, đồng thời bổ nhiệm ba viên chức người Việt vào các chức vụ Phó Giám đốc, Trưởng phòng Thư viện và Trưởng phòng Lưu trữ (5).
Việc thải hồi các nhân viên người Pháp được kết thúc vào ngày 19 tháng 6 năm 1945, bằng thư của Giám đốc S.Kudo gửi ba nhân viên người Pháp còn lại đang làm việc như những cố vấn ở Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, truyền đạt lại lệnh của Toàn quyền Đông Dương, yêu cầu họ phải rời khỏi công sở ngay ngày hôm sau, với lý do tế nhị là: “ ngân sách mới bị giảm rất nhiều” và một lý do khác có vẻ hợp lý hơn là “ vì tương lai của Vương quốc Việt Nam” (6). Biên bản bàn giao được thực hiện ngày 20 tháng 6 năm 1945 giữa cố vấn Paul Boudet, Trưởng phòng Thư ký và kế toán Bùi Quỳnh với chữ ký xác nhận của Giám đốc S.Kudo là văn bản cuối cùng chấm dứt vai trò của người Pháp tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương trong thời kỳ này. Theo “Báo cáo về hoạt động của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 23 tháng 8 năm 1945” thì:
“Sau khi các viên chức người Pháp bị thải hồi, Phó Giám đốc Ngô Đình Nhu đã tới Hà Nội và đã có ba tuần gặp gỡ với giáo sư S.Kudo”.
Ngày 31 tháng 7, ông Nhu đã trở lại Huế, nơi mà ông đã đảm nhận chức vụ quan trọng là Chủ tịch Viện Văn hoá của Việt Nam mới được thành lập. Theo đề nghị của ông Nhu và được sự đồng ý của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và của giáo sư S.Kudo, ông Phạm Đình Diễm (7) đã được thay thế ông Nhu trong khi ông Nhu vắng mặt (8).
Trong thời kỳ này, tình hình kinh tế và xã hội ở Hà Nội rất phức tạp. Tình hình đó đã diễn ra đúng như dự đoán của Trung ương đảng trước khi xảy ra sự kiện ngày 9 tháng 3. Phong trào Việt Minh mà sức hút của nó đối với các tầng lớp nhân dân Thủ đô, đặc biệt là đối với thanh niên và sinh viên vô cùng mạnh mẽ. Sự phát triển của phong trào Việt Minh và đỉnh cao của nó là cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vẫn còn ghi lại đậm nét trong tài liệu của phòng Toà Đốc lý Hà Nội.
Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền cách mạng được thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên, Lưu trữ và Thư viện đã được chính quyền cách mạng quan tâm đến. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, nghĩa là chỉ 6 ngày sau khi Việt Nam làm lễ tuyên bố Độc lập ở quảng trường Ba Đình lịch sử, Bộ trưởng Bộ nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời ký hai sắc lệnh liên quan đến Thư viện và Lưu trữ. Sắc lệnh thứ nhất sáp nhập các Thư viện công (trong đó có Thư viện Pierre Pasquier (9) trực thuộc Sở Lưu trữ Đông Dương) và có một số cơ quan văn hoá khác vào Bộ Quốc gia Giáo dục. Sắc lệnh tiếp theo cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc. Như vậy là, kể từ ngày 8 tháng 9 năm 1945, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã chính thức mang tên Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc trực thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục (10).
Ngày 21 tháng 9 năm 1945, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Nghị định giao việc kiểm sát các thư viện công (trong đó có Thư viện Pierre Pasquier) và một số cơ quan văn hoá khác do ông Giám đốc Đại học vụ đảm nhiệm. Theo Nghị định này, Nha lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc đã chuyển sang trực tiếp dưới quyền ông Giám đốc đại học vụ(11). Gần một tháng sau, ngày 16 tháng 10, Bộ Quốc gia Giáo dục lại ra tiếp một Nghị định nữa đặt Văn hoá viện Trung bộ (trước đây là Cơ quan Lưu trữ Trung kỳ) dưới quyền kiểm soát của ông Giám dốc đại học vụ (12). Như vậy là, trên thực tế, kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1946, Lưu trữ Trung kỳ đã tách khỏi Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc.
Tiếp đó, ngày 9 tháng 7 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã thay mặt Chủ tịch Chính phủ ký sắc lệnh số 119 về tổ chức bộ Quốc gia Giáo dục. Kể từ khi sắc lệnh được ký cho đến trước ngày Toàn quốc kháng chiến, Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc vẫn là cơ quan trực thuộc Nha Tổng Giám đốc đại học vụ thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục (13). Cũng theo sắc lệnh này thì Văn hoá viện Trung bộ Thuận Hoá cũng là một cơ quan trực thuộc Nha Tổng Giám đốc Đại học vụ thuộc Bộ Giáo dục như Nha Lưu Trữ Công văn và Thư viện toàn quốc.
Ngày 12 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh quy định “ Các công văn, công điệp, phiếu, trát, đơn từ, báo chí…bắt đầu từ ngày ký sắc lệnh này đều phải tiêu đề:
Việt Nam dân chủ cộng hoà năm thứ nhất” (14).
Tiếp đó, ngày 31 tháng 10 năm 1945, Uỷ ban nhân dân Bắc bộ lại ra Thông tư số 79/VP, nhắc lại tinh thần của Thông tư số 14/VP đã được ra ngày 17 tháng 9 về quy định bắt buộc cho các công sở phải thảo công văn bằng chữ quốc ngữ (15).
Tầm quan trọng của tài liêu lưu trữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Thông đạt số I-C/VP ngày 3 tháng 1 năm 1946:
“Xét rằng một vài công sở đã tự tiện huỷ bỏ hay bán các công văn và hồ sơ cũ. Hành động ấy có tính cách phá hoại, vì sẽ làm mất tài liệu có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia.
Vậy yêu cầu các ông Bộ trưởng ban chỉ thị cho nhân viên các sở phải giữ gìn tất cả các công văn, tài liệu và cấm không được huỷ các công văn, tài liệu ấy nếu không có lệnh trên rõ rệt cho phép huỷ bỏ.
Xin nhắc rằng những hồ sơ hoặc công văn không cần dùng sau này sẽ phải gửi về những Sở Lưu trữ công văn thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để tàng trữ (16).
Trong bối cảnh cực kỳ phức tạp của thời kỳ 1945-1946, sự ra đời của Thông đạt số I-C/VP là một sự kiện quan trọng đối với ngành lưu trữ. Nó thể hiện sự quan tâm của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tài liệu lưu trữ và vạch rõ nguyên tắc cơ bản đối với ngành lưu trữ là: tập trung thống nhất để quản lý và bảo quản an toàn tài liệu lưu trữ quốc gia. Có thể nói rằng Thông đạt số I-C/VP đã đặt nền móng cho ngành lưu trữ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về hoạt động của Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc trong giai đoạn này, chúng tôi tìm thấy trong phòng Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương hai tờ trình của Nha từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp đến hết năm 1945 (viết ngày 9 tháng 2 năm 1946). Điều đáng lưu ý ở đây là cả hai tờ trình đều không nhắc tới Ngô Đình Nhu trong vai trò của Giám đốc mà sắc lệnh ngày 8 tháng 9 năm 1945 đã cử. Tờ trình thứ nhất do ông Trần Văn Kha (T.L Giám đốc) viết chỉ có một đoạn duy nhất” “Sau ngày tổng khởi nghĩa 19 tháng 8, sắc lệnh mồng 8 tháng 9 năm 1945 cử ông Ngô Đình Nhu có bằng Cổ điển học, Giám đốc Sở Lưu trữ Công văn và Thư viện ở Thuận Hoá ra làm Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc. Ông Nhu đã ra Hà Nội nhậm chức ngày 30 tháng 10 năm 1945” (17). Tờ trình thứ hai cũng do ông Trần văn Kha viết, nhưng với chức danh Quyền Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc thì không còn một câu nào nới tới Ngô Đình Nhu nữa. Chúng tôi cũng không tìm thấy một tài liệu nào khác liên quan đến Ngô Đình Nhu, kể cả tài liệu về nhân sự của Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc trong giai đoạn này. Những tài liệu trên đây phải chăng đã đủ để chúng ta đưa ra một kết luận xác đáng về vai trò của Ngô Đình Nhu đối với Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc trong giai đoạn này?.
Một điều cũng đáng lưu ý nữa được đề cập đến trong hai tờ trình là ảnh hưởng của không khí cách mạng đến những người làm công tác lưu trữ ở giai đoạn này. Về phần công chức, tờ trình thứ nhất viết ngày 9 tháng 2 năm 1946 cho biết “Trong thời kỳ Pháp thuộc, số viên chức của toàn nha là 37, nay còn có 27, vì một số viên chức theo phong trào quốc gia sôi nổi đã gia nhập vào giải phóng quân, ra cảnh sát danh dự hay xin học lớp cán bộ thanh niên (18). Tờ trình thứ hai (ngày 12 tháng 9 năm 1946) viết cụ thể hơn: “Số viên chức tạm thời hiện đủ cho công việc…Có một thư ký công nhật đang theo học lớp võ bị Trần Quốc Tuấn và hai tuỳ phái công nhật gia nhập Vệ quốc đoàn” (19). Điều đó chứng tỏ rằng, những người làm công tác lưu trữ không phải chỉ biết công văn, giấy tờ mà còn là những người yêu nước, hăng hái tham gia phong trào cách mạng.
Sau một thời gian hoạt động với một bộ máy tổ chức mới được quy định ban đầu bởi Nghị định số 35/ND ngày 21 tháng 9 năm 1945 (sau được bổ sung với sắc lệnh số 119 ngày 7 tháng 7 năm 1946), Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc đã nhận thấy “cách tổ chức hiện thời đã không hợp lý lại sinh nhiều đến trở ngại vô ích” làm cho Nha không thể làm trọn những nhiệm vụ quan trọng, như nhiệm vụ “Tổ chức và bảo quản các Sở tàng trữ và công -văn thư của Chính phủ Trung ương và của các kỳ” hay “Thanh tra và kiểm soát về mặt chuyên môn các Sở Lưu trữ Công văn và Thư viện ở toàn cõi Việt nam” (20).
Chính vì vậy, Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc và Văn hoá Viện Trung bộ đã trình lên Nha Giám đốc Đại học dự thảo các Nghị định tổ chức của mình, nhằm “cải tổ lại tổ chức của mình cho phù hợp với chương trình kiến thiết quốc gia”. Trong công văn của Giám đốc đại học gửi Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc về tờ trình này, ông Phó Giám đốc viết: “Theo ý kiến tôi, việc tổ chức Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc và Văn hoá Viện Trung bộ nên làm chung vào một bản dự thảo nghị định” (21). Dự thảo đã được sửa chữa lại một vài lần nữa, song rất tiếc tình hình chính trị lúc đó vô cùng căng thẳng. Thực dân Pháp trở mặt phản bội, không thực hiện những điều cam kết của chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau khi ký Hiệp định Sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, bọn thực dân phản động Pháp ở Việt Nam đã luôn luôn thực hiện những thủ đoạn khiêu khích quân sự nhằm âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa. Trung ương đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách hoà hoãn với Pháp để nhân dân Việt Nam có thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài. Và cuối cùng, ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã nổ ra trên toàn quốc. Do hoàn cảnh chiến tranh gay go, ác liệt nên việc cải tổ lại cơ quan Lưu trữ và Thư viện đã không hoàn thành. Tuy nhiên, những hoạt động của Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc thời kỳ này cũng để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử của Lưu trữ và Thư viện Việt Nam.
______________
(1) Trích “Thông cáo về phiên họp bất thường của Nội các Nhật Bản hồi 12 giờ ngày 10-3-1945” đăng trên báo Đông Phátngày 11-3-1945 và ngày 12-3-1945 (dẫn theo “ Hà Nội- Những tháng ngày trước cuộc khởi nghĩa” của Vũ Dương Ninh, tạp chí: Nghiên cứu Lịch sửsố 4, năm 1995, trang 30).
(2) Báo Đông Phátngày 23-5-1945, tài liệu đã dẫn, trang 31.
(3) Báo Đông Phátngày 16-3-1945, tài liệu đã dẫn, trang 31.
(4) Phông Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (fonds de la Direction des Archives et des Bibliothèques de l’Indochine-DABI), hồ sơ 1285.
(5) Ba viên chức người Pháp là: Paul Boudet (Trưởng Quản thủ hạng nhất, Giám đốc cũ, Cố vấn); Remi Bourgeois (Trưởng Quản thủ hạng nhất, Trưởng Phòng lưu trữ); Simone de Saint Exupery (Lưu trữ viên phụ hạng nhất của lưu trữ tỉnh, Trưởng phòng Thư viện); Ba công chức người Việt là: Ngô Đình Nhu (Lưu trữ viên cổ tự, Quản thủ viên của Lưu trữ Trung kỳ ở Huế); Trần Văn Kha (Lưu trữ viên thư viện chính hạng ba); Lê Hữu Cúc (Thư ký hạng nhất)-DABI, hồ sơ 1285.
(6) DABI, hồ sơ số 1285, tài liệu đã dẫn.
(7) Phạm đình Giễm: Lưu trữ viên thư viện chính hạng hai, Trưởng phòng Kiểm tra công văn của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương.
(8) DABI, hồ sơ số 1285, tài liệu đã dẫn.
(9) Thư viện Pierre Pasquier sau đổi tên thành Quốc gai Thư viện (theo Nghị định số 114/NĐ ngày 20-10-1945của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ đình Hoè).
(10) Việt Nam dân quốc công báo, số 1, ngày 29-9-1945, trang 8.
(11). Việt Nam dân quốc công báo, số 2 ngày 6-10-1945, trang 24.
(12) Việt Nam dân quốc công báo số6, ngày 27-10-1945, trang 68.
(13) Việt Nam dân quốc công báosố 29, ngày 20-7-1946, trang 376.
(14) Việt Nam dân quốc công báosố 4, ngày 20-10-1945, trang 45.
(15) DABI, hồ sơ số 1538.
(16) Bản sao Thông đạt gửi Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc, DABI, hồ sơ số 1537.
(17) DABI, hồ sơ số 1537.
(18) tài liệu đã dẫn.
(19) Tài liệu đã dẫn.
(20) Trích dự thảo Nghị định ấn định nhiệm vụ Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc và các phòng ban trực thuộc, DABI, hồ sơ số 1537.
(21)DABI, hồ sơ số 1537.
Nguồn Xưa và nay, số 116 tháng 5 năm 2002.








