Luận về những nguyên nhân Việt Nam mất nước về tay Pháp
4. Triều đình không dự kiến cuộc Tây phương xâm lăng; không chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ độc lập dân tộc.
Ở thời cổ thì “đông là đông, tây là tây”. Châu Á và châu Âu cùng một lục địa nhưng Á - Âu liên lạc với nhau hết sức khó. đến năm 1497 nhà thám hiểm VascodeGama đi đường biển từ Tây Âu vòng Nam Phi Châu, từ Đại Tây Dương sang Ấn Độ Dương. Và Năm 1521 nhà thám hiểm Megenlan cắt ngang mũi đất cực Nam của Nam Mỹ Châu, từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Tiếp theo, Bồ Đào Nha đổ bộ lên Ấn Độ rồi đi đến Trung Quốc. Thương thuyền Tây phương sang Viễn Đông ngày một nhiều, trong thuyền vừa có hàng hoá, vừa có giáo sĩ, cùng thương gia, có thương gia người Hà Lan, người Anh, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, họ đua nhau đến thị trường mới lạ.
Thế kỷ 17,18 và cả đầu thế kỷ 19, không có người phương Đông và người Việt Nam nào biết vì sao người phương Tây lại qua phương Đông như vậy; các cụ túc nho bảo rằng họ làm như vậy vì họ có “bản tính mạo hiểm”, còn ta, người Việt Nam, cả người Trung Quốc thì lẩn quẩn bên hè! Không một ai, hay rất ít ai hiểu rằng, ở phương Tây, kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển, nền kinh tế công thương nghiệp đòi hỏi họ tìm thị trường rộng hơn để mua bán kiếm lời to, từ đó mới sinh ra các đợt thám hiểm, và từ đó mới sinh ra chủ nghĩa thực dân đi xâm chiếm thuộc địa. Các hội truyền giáo ở Tây phương đến các nước phương Đông nhờ tàu thuyền của các công ty thương mại. Càng vào sâu thế kỷ 19, chủ nghĩa thực dân phương Tây càng hiện rõ nguyên hình.
Chỉ có những người mù quáng mới không trông thấy sự bành trướng xâm lược của tư bản Tây phương qua Đông phương. Nhà Nguyễn ở Đàng Trong thấy rõ sự bành trướng này hơn nhà Trịnh ở Đàng Ngoài. Nhà Nguyễn bị Tây Sơn đánh bại đã tìm đến các công ty tư bản Tây phương ở Nam Hải để xin viện trợ quân sự. Và khi Nguyễn Ánh sang Xiêm để xin viện trợ ba mươi ngàn quân thì ông ta không thể không biết có lần quân Pháp đóng trên đất Xiêm đã chiếm căn cứ Jôngsơlăng và đã bị Xiêm đánh đuổi.
Ấy thế mà đầu óc của triều đình Nguyễn, cả vua lẫn quan mãi cho đến giữa thế kỷ 19 vẫn không thấy rõ cái nguy cơ xâm lược của các nước Tây phương mới lạ chớ! Lập luận của triều đình Nguyễn là không có nguy cơ xâm lược của Tây phương. Vì sao? Vì Tây phương, như Pháp chẳng hạn, ở xa Đông phương lắm, xa Việt Nam lắm; họ không ở cạnh nhà ta như nhà Tống, Nhà Minh, nhà Thanh, họ lấy nước ta, cắt đất ta để làm gì; họ chỉ cần mấy thẻo đất để lập thương điếm mua bán kiếm lời và để truyền đạo, nhiều lắm là gây chiến tranh để chiến thắng rồi đòi tiền bồi thường nặng! Mãi cho đến khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định rồi vua tôi Tự Đức vẫn còn lập luận như vậy!
Lập luận hàm các ý nghĩa rằng chỉ có Trung Quốc là nguy cơ xâm lăng như xưa nay, mà nay thì nhà Thanh sau Đống Đa, không đáng lo sợ lắm, Huế có thể yên tâm!
Cho nên triều đình lơ là việc chuẩn bị để có thể luôn luôn sẵn sàng đối phó với một cuộc xâm lăng bất kỳ từ đâu đến. “Luôn luôn sẵn sàng bảo vệ độc lập chống xâm lăng” là một trong những nguyên lý của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, triều đình Nguyễn bỏ quên mất hay là không chú trọng đến. Có, triều đình Huế có chú trọng việc phòng thủ nhưng chủ yếu là phòng thủ chống các cuộc nổi dậy của nhân dân. Hàng chục thành quách được xây dựng theo kiểu Vauban của Pháp tại nhiều tỉnh Nam, Trung, Bắc dưới thời Gia Long, Minh Mạng, thật sự chỉ chống lại được các cuộc khởi nghĩa của nông dân (trừ cuộc khởi binh Lê Văn Khôi, tướng làm phản của triều đình). Nhưng khi Pháp đánh Việt Nam thì các thành luỹ Vauban không cái nào không bị thất thủ trong vòng một buổi sáng.
Nói cho thật đúng thì triều đình Nguyễn cũng lo tổ chức quân đội và số quân tại ngũ không bao giờ quá thiếu. Sử ghi rằng năm 1820, khi Gia Long băng hà, quân đội đông tới số 160.000. Minh Mạng cầm quyền thì quân lực lớn hơn, nhưng với quân lực lớn hơn đó, Minh Mạng đã làm một việc hết sức vô chính trị là đi xâm lược Miên, Lào láng giềng, đáng lẽ phải cùng Miên, Lào đoàn kết thân ái làm phên dậu cho nhau trong lúc kẻ cướp Tây phương rình mò ngoài cửa. đến thời Tự Đức, nhà vua thi sĩ này cũng không bỏ quên võ bị: triều đình đặt thêm các ngạch hương binh, dân dũng, thổ dũng, cốt để trị an hơn là để chống ngoại xâm. Quân số không bao giờ thiếu song vũ trang cho quân đội là nhằm chống nội loạn hơn là chống xâm lăng, vũ khí thì thừa để đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa của dân chúng nhưng lại cực kỳ thô sơ so với vũ khí của các nước Tây phương .
Vũ khí đã kém, tinh thần quân lính lại càng kém. Đình thần Phạm Phú Thứ nhận xét thêm: “Quân sĩ hèn nhát do chưởng quan bất tài và vô quyền. binh sĩ nhiều người không lương bổng, phải tìm cách giúp đỡ nhau, chứ không mong gì đến gạo trong kho”.
Triều đình không tiếc vàng bạc để xây lăng đồ sộ, xây dựng cung điện nguy nga nhất trong lịch sử Việt Nam mà không chịu bỏ tiền mua súng đạn mà các tàu buôn nước ngoài đem tới nài bán.
Như vậy, nếu chính quyền Huế có sẵn sàng chiến đấu là săn sàng chiến đấu chống khởi nghĩa của nhân dân nước mình, chớ không có gì là sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược ngoại bang. Ngoại bang đó là nước nào? Triều đình Huế đáng ra phải biết trước rằng nước Pháp là kẻ sẽ xâm lăng Việt Nam, nhất là từ khi Paris đã nhăc nhở Huế việc thi hành hiệp ước Versailles 1787. Nhưng triều đình Huế vẫn cho rằng Pháp ở xa Việt Nam quá nên không đánh lấy nước ta làm gì; nghĩ sai như thế cho nên trong khi Pháp biết rõ Việt Nam mạnh yếu thế nào nhờ có quan đại thần ở ngay trong triều đình Huế và nhiều giáo sĩ hoạt động ở Việt Nam từ lâu cung cấp thông tin, thì triều đình Huế không biết gì về nước Pháp, không biết lịch sử và văn hoá của nó, không biết nó mạnh ở đâu để mà chuẩn bị đề phòng, không biết nó yếu ở đâu để mà tính cách lợi dụng. Xưa nay, bất kỳ ở đâu, trong các cuộc đối đầu giữa các nước, biết rõ, thật rõ đối phương là một điều kiện để chiến thắng, để không bại; biết rõ đối phương thì yếu có thể thắng mạnh, không biết gì rõ về đối phương thì mạnh cũng có thể bị đánh bại. Ở đầu và giữa thế kỷ 19, triều đình Huế không biết gì về Tây phương nói chung, về nước Pháp nói riêng, thì làm sao có cách chuẩn bị sẵn sàng để đối đầu với Pháp xâm lăng? Mãi đến khi đại bác Pháp nổ vào Đà Nẵng thì Huế mới bắt đầu thức tỉnh.
5. Pháp tiến công - Triều đình Huế giữ thế thủ, chủ hoà. Đường lối thủ và hoà dẫn đến mất nước.
![]() |
Tranh vẽ mô tả cảnh đánh thành của Pháp ở Việt Nam năm 1884 |
Thống lãnh cuộc xâm lăng là đô đốc Rigault de Genouilly. Lực lượng xâm lăm gồm quân Pháp, quân Tây Ban Nha và nhân công thuê. Ở phương Bắc, tất cả non già 3.000 người với 14 tàu chiến, một giám mục, một số giáo sĩ biết tiếng Việt Nam. Mục tiêu của chiến dịch là chiếm Đà Nẵng; sau đó, liên quân Pháp - Tây Ban Nha sẽ đánh chiếm luôn kinh thành Huế, bắt vua Tự Đức phải thi hành các điều khoản hiệp ước Versailles. Pháp tính rằng sẽ chiến thắng dễ như trở bàn tay. Cung điện Huế không giàu tột bực như cung điện Bắc Kinh song cũng đủ hấp dẫn quân Pháp - Tây Ban Nha.
1-9-1858, quân Pháp – Tây Ban Nha tiến công Đà Nẵng; 2-9 họ chiếm xong cả thị trấn Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Quân Việt Nam lui ra, lập phòng tuyến chặn địch ở một rẻo bờ biển. Một sĩ quan gởi thư về Pháp viết: “Đất mà chúng tôi chiếm được thì dân đều bỏ đi cả, trừ vài nhà tranh của những người đánh cá, tôi chưa thấy một con gà”.
Số là quân Pháp được các cha cố hứa hẹn rằng, hễ Pháp đến thì dân bản xứ sẽ nổi lên hưởng ứng. Nhưng quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ rồi mà chẳng thấy ma nào hưởng ứng cả.
Bản thân đô đốc Rigault de Genouilly báo cáo về cho chính phủ Pháp: “Chính phủ bị đánh lừa về bản chất cuộc chinh phục nước Việt Nam, Người ta trình bày rằng cuộc viễn chinh này chỉ là một việc nhỏ, một việc dễ. Thực ra nó không nhỏ, không dễ. Xứ này không có đường cái lớn, lại chằng chịt sông rạch, sông thì cạn, đồng thì lầy. Xứ này có quân chính quy đông, còn dân quân thì gồm tất cả những ai không ốm đau, tàn tật”. Rigault có vài lần thử lên đèo Hải Vân và vào sông Hương để vào Huế. Không được. Đèo cao, sông cạn. Đi sâu vào nội tỉnh Quảng Nam cũng không nổi: ruộng thì lầy, đằng sau xa là núi rừng hiểm trở…Ở mãi Đà Nẵng làm gì? Các cha cố khuyên đô đốc kéo quân ra Bắc, ở đó có bọn Tạ Văn Phụng (phe cha cố Tây Ban Nha) có thể giúp liên quân Pháp - Tây Ban Nha đắc lực. Nhưng Rigault thấy không ổn, Bắc Bộ xa Huế mà gần Trung Quốc, nếu Trung Quốc can thiệp thì làm sao? Y bèn giải quyết cái bí bằng cách kéo quân từ Đà nẵng vào đánh chiếm Gia Định, ở đây sông sâu tiện cho hải quân hoạt động và ở đây có nhiều lúa gạo để vừa nuôi quân, vừa có thể cắt đứt nguồn tiếp tế lương thực cho Huế.
Rigault rút bớt quân ở Đà Nẵng vào đánh chiếm Gia Định, đánh chiếm Gia định rồi thì rút hết vào đây số quân còn lại ở Đà Nẵng.
Việc Pháp rút hết quân khỏi Đà Nẵng làm nảy sinh ở triều đình Huế một tư tưởng lạ lùng và nguy hiểm là: Vì Pháp ở xa Việt Nam quá cho nên không chắc gì Pháp muốn cắt đất Việt Nam. Huế nghĩ rằng Pháp chỉ cần một số nơi để lập thương điếm và truyền đạo, rằng Pháp chỉ cần đòi chiến phí nặng, khi ta trả tiền cho họ thì họ sẽ bằng lòng rút quân, vậy nên hoà hoãn với họ, nhượng ước với họ hơn là chiến tranh với họ mà sức ta không thắng nổi. Đại thần giải thích tại sao Pháp tiến đánh Việt Nam: “Bấy lâu nay ta lạnh nhạt với họ, họ bị các nước láng giềng chê cười, cho nên họ đem quân ta đánh ta để được hoà!”.
Đại thần ở triều đình mà lập luận quái gở như thế! Vậy mà nhà vua và các đại thần khác cũng nghe được thì lại càng quái gở.
Người đọc sử sau này ai mà không tự hỏi tại sao khi Pháp rút phần lớn quân ở Đà nẵng để vào đánh chiếm Gia Định, ở Đà Nẵng chỉ còn non ngàn quân Pháp - Tây Ban Nha đương đầu với cả vạn quân Việt nam mà thống tướng Nguyễn Tri Phương không thừa thế tấn công tiêu diệt địch, để chúng an toàn rút vào Gia Định? Và tự hỏi tại sao, được triều đình phái vào mặt trận Gia Định, vị thống tướng này, dưới trướng có 30 ngàn quân chính quy và dân quân, cứ lụi cụi xây đắp Đại đồn Chí Hoà mà không tiến công quân xâm lược lúc chúng chỉ có độ 300 tên, phần lớn đã rút lên Bắc Hải để tiếp tục chiến tranh với Trung Quốc nhà Thanh. Khi ấy, nếu Việt Nam thừa thế tiến công thì chỉ với dao mác trong tay, quân Việt Nam làm cận chiến cũng thừa sức tiêu diệt chúng đang chờ chết. Vậy mà thống tướng thay mặt cho triều đình Huế vẫn án binh bất động cho đến khi mấy ngàn quân Pháp, lần này đông hơn trước, lại trở về Gia Định và mở ngay cuộc tiến công đại đồn, lấy đại đồn và chiếm cả bốn tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
Quan quân của triều đình tan vỡ tháo chạy. Nhưng nhân dân lục tỉnh, nhất là nhân dân miền Đông thì đứng lên kháng chiến rất mạnh; quân Pháp đán áp không nổi. Sách Cuộc xâm chiếm Đông Dươngcủa Thomazi ghi rằng:“ Người Pháp đã bắt đầu thấy rằng cần phải chinh phục lại các tỉnh đã chinh phục, nhưng không ngờ rằng chính trong lúc đó vua Tự Đức xin giảng hoà”.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, một hoà ước được ký kết, triều đình Huế nhận cắt ba tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Định Tường trao về tay Pháp, chịu trả cho Pháp 20 triệu quan chiến phí, triều đình Huế chỉ của Pháp hứa sẽ cho chuộc lại ba tỉnh! Nhưng làm gì có việc chuộc lại? Miếng thịt ngon đã vào miệng sói rồi thì sói nào lại nhả ra? Vua quan gì mà khờ dại đến mức đó? Không dám tiến công địch, chủ trương hòa hảo với kẻ xâm lăng, thì chỉ có đi đến đầu hàng bán nước.
Sao mà Huế dễ dàng chịu cắt đất cho Pháp như vậy? Vua tôi Tự Đức mờ tịt về tình thế nguy khốn của Pháp lúc ấy. Lúc Pháp đang vật vã chiếm ba tính Nam Kỳ, đang phải lo “Chinh phục lại các tỉnh đã chinh phục”, đúng vào lúc bên trời Âu - Tây, Pháp bị vướng vào cuộc chiến tranh Mễ Tây Cơ tân bên Tân Thế Giới, không làm sao tăng viện, dù ít, cho đô đốc Bonard ở Nam Kỳ. Nã Phá Luân III gởi 7.000 quân sang đánh chiếm Mễ Tây Cơ; quân Pháp bị đánh bại thê thảm ở Puebla. Nã Phá Luân phải gởi thêm 28.000 quân nữa mới lấy lại được Puebla sau một trận đánh lưu huyết rồi mới vào được kinh thành. Nhưng sau khi quân Pháp vào được kinh thành rồi thì người Mễ Tây Cơ nổi dậy khắp nơi, Pháp không đàn áp nổi. Sự kiện Mễ Tây Cơ 1862 - 1863 hút hết tâm lực của chính phủ Pháp, hút hết khả năng tài chính của Pháp; rồi cuối cùng quân Pháp phải rút khỏi Mễ Tây Cơ. Giá mà triều đình Huế ít mù quáng, biết được tình hình này để mà tiếp tục chủ chiến chứ không giảng hòa thì làm gì Việt Nam phải mất Nam Kỳ về tay Pháp?
Chiến tranh mà không biết địch, cũng không biết ta thì thất bại là điều không tránh khỏi.
6. Triều đình Nguyễn một lần nữa bỏ qua thời cơ tốt hiếm có khi Pháp bị Đức đánh bại sát đất năm 1870.
Hoà ước 1862 ký kết, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp nói: “Hoà ước đã thành, có thể ngồi mà đến phú cường”. Nguyễn Tri Phương nói khác: “Sau khi đã hòa, của cải sức lục ngày một hao mòn, còn lấy gì để mà phú cường nữa?”. Triều đình không có kế sách gì phục hưng đất nước, để Pháp tự tiện nuốt luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ mà không tốn một người lính, một viên đạn nào, cũng không cần được triều đình Huế công nhận.
Lúc này, không bị ngoại bang nào uy hiếp, triều đình Huế có thì giờ và điều kiện để phục hưng đất nước. Nhưng lạ thay, triều đình vẫn lo sợ rằng: nếu công việc phục hưng bị lộ liễu để Pháp trông thấy, cho nên vua Tự Đức dặn dò triều thần “không nên để tỏ ra ta lộn xộn, cho Pháp khỏi ngờ vực”!Tự Đức sai quan đúc thêm 500 khẩu thần công, 2.000 súng tay (kiểu lòng láng nạp tiền như trước đây), lo tăng cường các cơ binh ở tỉnh, tăng cường phòng thủ ở cửa Thuận An. Thực tế là triều đình không biết phải phục hưng đất nước như thế nào. Một số đình thần muốn Việt Nam liên kết với các nước Đông Á để cùng đối phó với Tây Âu, nhưng vua không nghe, sợ Pháp ngờ vực. Và nhiều nước châu Âu như Đức, Anh, Tây Ban Nha tự họ đến xin giao thương với Việt Nam, triều đình cũng không chịu mở cửa! Không ai có thể hiểu tại sao triều đình không chịu đặt quan hệ thương mại với các nước đó, lợi dụng sự cạnh tranhgiữa họ với Pháp để rộng đường mua bán những gì minh cần, trước hết là vũ khí. Lúc bấy giờ Huế đã có ký kết gì với Pháp để dành riêng thị trường Việt Nam cho Pháp đâu? Huế thật giống như một con rùa, mới động tới, nó đã rút cổ vào mu. Bao nhiêu cơ hội để phục hưng đất nước, triều đình Huế đều bỏ qua? Cơ hội tốt là chiến tranh 1870 giữa Pháp và Đức.
Cuối 1870 chiến tranh Pháp - Đức nổ ra. Pháp đại bại. Bốn chục vạn quân Pháp bị Đức bắt làm tù binh, 149 ngàn tử trận; Pháp phải cắt hai tỉnh cho Đức, phải bồi thường chiến phí hết sức nặng, trong lúc chưa trả xong chiến phí thì Pháp phải chịu 650 ngàn quân Đức chiếm đóng 27 tỉnh. Nước Pháp suy sụp, dân Pháp sút tinh thần, nhân dân lao động kinh thành Paris nổi lên khởi nghĩa vũ trang. Quân lính Pháp ở Nam Kỳ rầu rĩ chờ ngày hoặc bị triều đình Huế đến tiêu diệt hoặc được chính quyền Paris rút về Pháp. Lúc bấy giờ ở Sài Gòn, ở Huế, không phải không có ai đề nghị triều đình Tự Đức hẵy thừa cơ hưng binh tiến công lấy lại Nam Kỳ lục tỉnh. Đánh thì chắc thắng trăm phần trăm. Nhưng triều đình Tự Đức chẳng những không tiến công quân Pháp đang chờ chết hay đầu hàng, mà quái gở thay, Tự Đức lại cử một phái đoàn chính thức vào Sài Gòn trước hết là để “phân ưu với Phủ súy” - chia buồn việc Pháp bại trận - sau là để dò hỏi xem ngày tháng nào Pháp trả lại sáu tỉnh cho triều đình Huế. Tất nhiên là chẳng bao giờ cả.
Không cho chuộc, cũng không trả lại. Huế có thể chờ, chờ đến khi Pháp vững chân ở Nam Kỳ để tiến đánh ra Bắc và lấy cả nước Việt Nam làm thuộc địa.
Nguồn: Xưa và Nay - Số 149. Tháng 10 - 2003