Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 23/09/2011 18:18 (GMT+7)

Long đong giá đất

Chuyện giá đất của ngày xưa

Câu đầu lưỡi của người Việt Nam về đất đai thường là "tấc đất - tắc vàng", cũng có khi nói "đất đai là vô giá" với nghĩa là không thể mua được. Tất cả những câu nói như vậy đều rất đúng, điều quan trọng là nói trong hoàn cảnh nào. Trong một buổi nói về giá trị kinh tế của đất thì đất đai có giá, tương đương như vàng; trong một buổi nói về công lao của cả dân tộc đã bảo vệ giữ nguyên bờ cõi thì đất đai là vô giá. Điều này cho thấy tính đa diện của đất đai, cho mỗi mặt đất đai có một thể hiện riêng, đừng bắt đất đai phải giống như tư duy chủ quan của một ai.

Trong suốt thời kỳ bao cấp, đất đai không được thừa nhận là có giá trị, không có giá cả, không được mua bán. Nhà nước chỉ cho phép mua bán tài sản trên đất, ai mua được tài sản thì đương nhiên đất đi theo tài sản đó. Trên thực tế, một thửa đất rộng có một túp lều đơn sơ giá vẫn cao hơn nhiều lần một thửa đất hẹp có một căn nhà phức tạp (trong cùng một điều kiện tự nhiên, hạ tầng và quy hoạch). Một nghịch lý ai cũng thấy, ai cũng mừng vì "mua" được đất nhưng ai cũng phải nói rằng mua được cái nhà hợp quá.

Vào đầu cuối năm 1980, tôi đã từng đi tìm "mua" đất để làm chỗ ở khi có chút tiền ở nước ngoài mang về. Có người quen giới thiệu cho một mảnh đất trống mà chủ đang muốn "bán" rẻ vì cần tiền. Tôi lên sở Nhà đất thành phố để hỏi thăm về thủ tục, tình cờ gặp được một sinh viên cũ đang giữ trọng trách ở đây. Tôi trình bầy nguyện vọng, người học trò cũ nghe xong hoàn cảnh thì phán rằng thầy không thể "mua" được mảnh đất đó vì trên đất chẳng có gì để mua cả, nhưng em có giúp thầy thực hiện được nguyện vọng. Người học trò ấy tiếp, thầy đề nghị với chủ nhà làm một túp lều trên đất, rất nhỏ thôi cũng được, sau đó làm đơn xin mua nhà cũ để về cải tạo, em sẽ xuống hiện trường kiểm tra và duyệt vào đơn rằng cho mua...

Sự thực, đây là một nghịch lý mà nói ra người nước ngoài không hiểu được, coi như một chuyện rất lạ mà có thật. Trong các điển cố văn học xưa nay, người ta nói nhiều về chuyện người bán làm hàng giả để người mua bị nhầm như "treo đầu dê, bán thịt chó", "lấy mạt cưa làm cám", "cho thau lẫn với vàng". Chưa có ngụ ngôn nào nói về cảnh "người bán vàng và người mua vàng đều biết rõ hàng hóa là vàng thật, nhưng lại cùng phải nói ra miệng rằng chúng mình đang mua bán đồng thau, tiền trả thật cho nhau theo giá vàng nhưng lại chỉ công khai giá trị rẻ mạt của vài mảnh đồng thau, rồi đem nhau đi nộp thuế cũng với cái giá trị rẻ mạt đó, chỉ có thuế là thiệt hại rất lớn".

Nói về nghịch lý này từ ngày bao cấp ấy đâu phải chỉ là câu chuyện cho vui. Cái nghịch lý giá đất ấy hiện vẫn đang làm khối người điêu đứng. Ngày bao cấp ở khá nhiều địa phương, các cơ quan được phép bán nhà làm việc cũ cho cán bộ, công nhân viên của mình làm nhà ở. Trên giấy tờ chỉ ghi là cơ quan bán nhà ở, không nói gì về đất vì hồi đó đất đương nhiên đi theo nhà. Đến nay, tỉnh quyết định thu hồi đất có các nhà ngày xưa cơ quan đã bán và quyết định chỉ bồi thường nhà đang ở chứ không bồi thường đất. Mọi cư dân đều hốt hoảng đi khiếu kiện qua các cửa lên đến tỉnh. Câu trả lời ở các cấp đều là: "trong giấy tờ chỉ có nhà, không nói gì về đất nên không được bồi thường về đất". Thật là oan nghiệt, trời cũng không gỡ được.

Đến nay, Đổi Mới đã được 25 năm mà vấn đề giá đất vẫn đầy lủng củng. Thuật ngữ pháp luật chính thống vẫn là giá quyền sử dụng đất. Pháp luật mới chỉ thừa nhận quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Khái niệm "giá đất" vẫn còn long đong lắm.

Chuyện giá đất sau ngày đổi mới

Hệ thống tài chính đất đai nước ta, trong đó có giá đất và thuế đất, được đổi mới chậm hơn những đổi mới về công cụ pháp luật và hành chính trong quản lý đất đai. Cả về giá đất và thuế đất đều chuyển mình rất chậm chạp.

Luật Đất đai 1987 vẫn không thừa nhận đất đai có giá trị và giá cả. Đất đai vẫn vận hành theo cơ chế Nhà nước bao cấp hoàn toàn, ai cần đất được Nhà nước giao và ai không cần nữa thì Nhà nước thu lại. Hệ thống thuế liên quan đến đất vẫn không có gì đổi mới. Đối với đất nông nghiệp, vẫn là Thuế Nông nghiệp ban hành từ năm 1983 và sửa đổi, bổ sung năm 1989 (Pháp lệnh về Thuế Nông nghiệp ngày 25/02/1983 và Pháp lệnh về việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về Thuế Nông nghiệp ngày 30/01/1989). Đối với đất phi nông nghiệp, vẫn là Thuế Thổ trạch do Thủ tướng Chính phủ quy định từ năm 1956 (Nghị định số 661 ngày 12/01/1956 ban hành bản điều lệ tạm thời về Thuế Thổ trạch).

Luật Đất đai 1993 công nhận đất có giá nhưng không công nhận giá trị hình thành trên thị trường, giá đất do Nhà nước quy định theo hướng buộc thị trường phải theo. Sự thực, việc pháp luật thừa nhận đất có giá đã là một đổi mới quan trọng về tư duy, đã biến "không" thành "có". Còn cơ chế Nhà nước quy định giá để hướng dẫn thị trường lại thể hiện sự "duy ý trí trong cơ chế thị trường", một phần dư của tư duy "duy ý trí" trong cơ chế bao cấp chuyển vào thị trường. Dục tốc có lẽ bất đạt.

Năm 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về Thuế Nhà đất thay cho Nghị định về Thuế Thổ trạch từ năm 1956, và Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung vào năm 1994 theo hướng đánh thuế cao hơn vào đất phi nông nghiệp. Điều không đúng trong các Pháp lệnh này là lấy khung đánh thuế vào đất nông nghiệp để đánh thuế vào đất phi nông nghiệp với tỷ suất thuế cao hơn. Thuế vẫn tính theo thóc, nơi giá đất đô thị cao nhất cả nước cũng chỉ chịu thuế có 2 kg thóc trên mỗi mét vuông đất mỗi năm. Doanh nghiệp cũng như hộ gia đình chẳng có khái niệm về việc phải nộp thuế này nữa. Vào thời điểm năm 2007, Thuế Nhà đất của ta chỉ thu được 711 tỷ đồng trên phạm vi cả nước (chiếm 2% tổng thu từ đất). Ở các nước phát triển, thuế bất động sản chiếm từ 50% tới 70% tổng thu cho chính quyền địa phương, đây là nguồn lực chính để phát triển hạ tầng và dịch vụ công cộng.

Năm 1993, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thay thế Pháp lệnh về Thuế Nông nghiệp ban hành từ năm 1983 và 1989. Sự thay thế này cũng mang một ý nghĩa quan trọng về đổi mới tư duy: thuế trong khu vực nông nghiệp không đánh vào sản xuất mà đánh vào sử dụng đất, làm cho sử dụng đất hiệu quả hơn. Tư duy này cũng áp dụng cho đánh thuế vào khu vực sản xuất phi nông nghiệp thì hay biết mấy.

Chuyện giá đất hiện hành

Đến Luật Đất đai 2003 mới thừa nhận giá trị đất đai phải phù hợp với giá trị hình thành trên thị trường, giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá đất trên thị trường. Sự "duy ý trí" về giá đất trong cơ chế thị trường đã mất trên giấy. Trên thực tế tại các địa phương, giá đất do Nhà nước quy định vẫn có khoảng cách đáng kể so với giá đất trên thị trường, chênh lệch từ 90% tới 30% tùy theo từng nơi.

Điều bất cập thứ hai là Luật chỉ quy định nguyên tắc chung là vậy nhưng chẳng có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định quy trình để xác định giá đất phù hợp thị trường. Giá nào cũng do UBND cấp tỉnh quyết định, quyết thế nào rồi gọi là giá thị trường thì mọi người cũng phải chịu. Nhiều cán bộ lãnh đạo địa phương cũng nói rằng khó xác định giá thị trường lắm, giá thị trường vào lúc nào và điều kiện nào là tương đương. Nói như vậy cũng đúng vì đến nay vẫn không có một hành lang pháp lý thống nhất để xác định giá đất trên thị trường. Cách thức này dẫn đến một hậu quả đáng phải giải quyết: UBND cấp tỉnh vừa quyết định thu hồi đất, vừa quyết định giá đất để tính bồi thường, vừa quyết định giao đất, cho thuê đất, vừa quyết định giá đất để tính tiền sử dụng hoặc tiền thuê đất mà không có cơ chế phù hợp để giám sát quyền lực này, ắt dẫn tới nguy cơ tham nhũng lớn. Thông thường, người bị thu hồi đất thì buồn, nhà đầu tư thì vui.

Bất cập thứ ba, hiện có tới 3 Bộ tham gia vào công tác quản lý nhà nước về định giá đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường phụ trách về định giá đất hàng loạt để xây dựng khung giá đất của Chính phủ và hướng dẫn các tỉnh xây dựng bảng giá đất của Nhà nước ở địa phương. Bộ Tài chính phụ trách về định giá đất các thửa đất cụ thể theo khung pháp luật của Pháp lệnh về Giá. Bộ Xây dựng phụ trách về định giá đất trong các đơn vị bất động sản theo khung pháp luật của Luật Kinh doanh bất động sản. Giá đất đã phức tạp này lại càng phức tạp thêm.

Bất cập thứ tư, hiện nay thuật ngữ pháp luật "giá đất" vẫn là cách gọi tắt, chính thống vẫn phải gọi là giá quyền sử dụng đất. Khi soạn thảo Luật Đất đai 2003, thảo luận khá sôi nổi về việc này. Đa số ý kiến nói rằng Luật Đất đai 1993 đã công nhận "giá đất", nay lại viết là "giá quyền sử dụng đất" thì hóa ra đi lùi à. Cũng có khá nhiều ý kiến là không thể chấp nhận khái niệm "giá quyền sử dụng đất", phân tích tới cùng thì thấy một loạt việc không ổn trong lý luận về hàng hóa và giá hàng hóa. Một sáng kiến xuất hiện đúng lúc: nên định nghĩa là "Giá quyền sử dụng đất (sau đây gọi là giá đất) là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất" (Khoản 23 Điều 4). Mọi người thở phào, nhất trí cao trong Ban Soạn thảo. Đúng là "tự lấy đá ghè vào chân mình". Về thực chất, khái niệm pháp lý về "giá đất" đã được thừa nhận, nay lại thôi, phải mượn tên hiệu để thay tên khai sinh, quả là long đong.

Sau năm 2003, Quốc hội đã rất quyết tâm chuyển đổi hệ thống thuế có liên quan tới sử dụng đất đai. Quốc hội cho phép miễn, giảm hầu hết Thuế Sử dụng đất nông nghiệp nhằm giảm gánh nặng cho khu vực tam nông (Nghị quyết số 15/2003/QH11 ngày 17/6/2003 và Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp). Trong thời kỳ bao cấp, Thuế Nông nghiệp là một nguồn thu lớn cho ngân sách. Tại thời điểm năm 2007, Thuế này chỉ còn 81 tỷ trên phạm vi cả nước, chủ yếu đánh vào những trường hợp sử dụng đất vượt hạn mức. Đây là một chính sách rất tiến bộ.

Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có biểu hiện phức tạp hơn. Thảo luận mãi ở cấp Bộ, chuyển từ Thuế Nhà đất, sang Thuế Bất động sản, sang Thuế Tài sản và sau cùng là Thuế Sử dụng đất phi nông nghiệp. Sau 7 năm thảo luận và xây dựng, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ngày 17/6/2010, đánh vào giá trị đất với thuế suất sàn là 0,03%, không đánh vào nhà, có lũy tiến vào những trường hợp vượt hạn mức. Tính trung bình, thu ngân sách từ thuế này gấp 3 lần thu trước đây. So với số thu vào năm 2007, Luật Thuế này có thể thu được khoảng 2.100 tỷ mỗi năm, chiếm khoảng 6% nguồn thu từ đất. Thu như vậy cũng chẳng phải cao, cũng không đạt được bất kỳ mục tiêu nào của Thuế Bất động sản để điều tiết kinh tế, xã hội, môi trường có liên quan tới đầu tư trên đất. Khi Luật thuế này chưa bước vào thực tiễn thì đã có chuyện thảo luận căng thẳng về cơ chế đánh thuế vào nhà bỏ hoang.

Đổi mới cho câu chuyện giá đất ngày mai hết long đong

Nhìn vào bức tranh giá đất trên đây, quả là thật long đong. Có lúc không được tồn tại, có lúc được thừa nhận theo kiểu duy ý trí, có lúc thật nhưng lại phải mượn tên. Vậy phải làm gì để giá đất được pháp luật thừa nhận, để đừng làm thiệt hại cho nguồn thu ngân sách nhà nước, cũng như cho người sử dụng đất và làm tắt đi các nguy cơ tham nhũng.

Nhìn vào các bức xúc nêu trên, rất dễ thấy những đổi mới cần làm:

1.     Cần xác định đất đai là hàng hóa đặc biệt, công nhận khái niệm giá đất trong hệ thống pháp luật.

2.    Tách riêng hệ thống giá đất do Nhà nước quy định để tính toán nghĩa vụ tài chính mà tất cả mọi người phải thực hiện trên cơ sở giá đất thị trường trung bình của 5 năm trước, được áp dụng trong 5 năm tiếp theo. UBND cấp tỉnh thuê tư vấn định giá đất hàng loạt và phê duyệt theo quy trình để áp dụng. Chính phủ không quy định khung giá đất trên phạm vi cả nước mà quy định về trình tự, thủ tục về xây dựng bảng giá đất cấp tỉnh.

3.    Để xác định giá đất trong những trường hợp cụ thể phải xác định giá trị đất đai khi Nhà nước giao đất, tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất, giá trị bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, cần thành lập hệ thống Hội đồng định giá BĐS cấp quốc gia và cấp tỉnh để quyết định giá đất, bảo đảm tính độc lập với UBND cấp tỉnh. Ngoài quyết định về giá, các hội đồng này còn có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về giá đất và cấp phép hành nghề định giá BĐS cho các định giá viên.

4.    Định giá đất là một chuyên môn sâu, Hiệp hội các nhà định giá đất đóng vai trò quan trọng trong cơ chế quản lý giá đất. Nên giao cho Hiệp hội này chức năng của một cộng đồng xây dựng chuẩn nghề nghiệp và giám sát việc thực hiện nhằm nâng cao đạo đức và chất lượng.

Các nước phát triển, nước công nghiệp mới, nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hóa đều làm như các đề xuất ở trên. Ở khu vực Đông Nam Á, Singapor, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philipin, Bruneicũng đều làm như vậy.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.