Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 09/05/2006 17:48 (GMT+7)

Khảo cứu về di tích Hà Thành ngày nay

Thử lên cao mà nhìn ra bốn xung quanh sẽ thấy lầu cao liền dẫy, cây cối sum suê, phố xá phồn hoa, người đông như kiến; xe hơi chớp điện mà đến, máy bay đỡ mây mà qua, khiến cho tai ù mắt hoa. Hà Thành thật là một đô thị mới náo nhiệt vậy. Nhưng rồi lướt mắt qua Hồ Gươm trong vắt, sông Nhị chảy quanh, Văn Miếu rêu phong, Cột Cờ cao sững, đình Nam Hương cổ, lúa tốt thành không, cùa Dục Khánh đơn côi, quyên khắc khoải trên cây cổ thụ, thì đình đài trước mắt đều mang khí sắc cổ xưa. Bởi vì Hà Thành vốn có một lịch sử lâu đời, từ khi Lý triều định đô đến nay, vẫn là kinh đô của đế vương các triều đại, cổ tích danh thắng, rành rành có thể đếm được. Nay tuy núi sông vẫn như xưa nhưng thành quách một nửa đã không còn như trước. Bọn chúng ta ngao du giữa chốn phố phường mới mẻ này, cơ hồ có khi quên mất đây là chốn kinh đô nổi tiếng xưa nay. Tôi đôi lúc từng đi tìm những gò đống xưa, hỏi thăm các cố lão, muốn khiến cho lịch sử và thắng tích hàng ngàn năm trước được rành rõ trong đầu. Nhưng đáng tiếc các cố lão phần lớn đã mất mà núi hồ cũng quá nửa mai một, nỗi hận bể dâu, hỉ ngâm suông câu thơ hoài cổ, thân thế phiêu bồng dễ khiến ta sinh mối cảm thương. Nhân thể tôi làm bốn bức bản đồ Hà Thành duyên cách (Hà Thành thay đổi trong lịch sử), một là bản đồ Thăng Long thời Lý, hai là Bản đồ Thăng Long thời cuối Lê, ba là bản đồ tỉnh thành Hà Nội thời Tự Đức, bốn là bản đồ phố phường Hà Nội ngày nay, những danh tích cổ kim đều chỉ rõ để dùng làm tài liệu tham khảo, lại ghi phụ thêm việc cũ và di tích xưa ở cuối bài.

Xét Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức, hình dạng như chiếc thước gấp khúc. Ba mặt đông, nam bắc vuông vắn, tây và nam kéo dài đến một nửa. Chính Cửa Đông bắt đầu từ thôn Cửa Đông cũ, phía bắc đi đến sông Tô Lịch, theo phía tả ngạn qua Cửa Bắc mà đi về phía tây, đối diện với phường Nhật Chiêu mà quay phía nam là cửa Bảo Khánh; phía nam đến mé hữu trước Văn Miếu lại đi qua phía sau thì bên tả là cửa Nam, đi thẳng mà về phía đông thì đấy là thành Thăng Long, giữa dấu tích cũ là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Phía trong Đoan Môn là điện Thị Triều; phía trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên; bên hữu điện Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả Đông Trường An, bên trong có sông Ngọc (Ngọc Hà). Phía ngoài Cung Thành, phía trong Hoàng Thành, mé phía đông là Thái Miếu, đằng sau là Đông Cung; mé phía tây đi qua núi Khán (Khán Sơn) là điện Giảng Võ, lại về phía tây là đền Linh Lang, trường thi Hội cũng ở đây. Cung thành, Hoàng thành đều xây bằng gạch, nền điện Kính Thiên là một gò đất bằng trội hẳn lên, cao, bằng phẳng và vuông vắn. Thời Lý, năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), định đô, lấy núi này làm nền chính điện, đến Lê Thái Tổ định đô ở thành Đông Quang (tức Thăng Long) thì khởi xây điện Kính Thiên ở đây; năm Gia Long thứ hai quốc triều (1803) trùng tu làm điện tiền Hoàng cung. Địa kiềm ký ghi rằng: “Núi Nùng ở chính giữa”. tức là nơi này. Phía sau núi Nùng có ba quả núi: mé hữu là Khán Sơn, cổ truyền trong núi có một cái lỗ, chính là cái đầm thông khí của núi nên có tên là Long Đỗ.

Phủ Trịnh vương

Di tích lịch sử của Hà Thành rất nhiều, nhưng đáng chú ý nhất là Phủ chúa Trịnh. Thế hệ họ Trịnh khởi đầu từ Trịnh Kiểm dưới thời Lê Trang Tông cho đến Lê mạt, gồm hơn hai trăm sáu mươi năm. Họ Trịnh chấp chính, xây Vương phủ ở ngoài thành Thăng Long. Sau khi họ Trịnh mất, Vương phủ bị thiêu huỷ trong binh lửa, chẳng còn vết tích gì. Khảo trong Bản đồ Thăng Long thời cuối Lê thì Phủ Trịnh vương ở về phía nam Tháp Báo Thiên, ngoài cửa Đông Nam, lại thấy sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Phố Hoành Đình ở mé ngoài cửa Đông Nam một dặm, sau Trịnh phủ là phố”. Người đời lại truyền rằng Trịnh soái trong ngày sinh ra lệnh bày đặt đàn ca ở phố sau Hoành Đình đàu là chiêu “sinh hồn”; lại ghi: “Phố Cẩm Chỉ huyện Thọ Xương ở mé ngoài cửa Đông Nam một dặm, là cửa trước phủ Trịnh Vương xưa.” Xét Hoàng Đình tục gọi là Đình Ngang, ở phường Phúc Lâm, mé ngoài cửa Đông Nam một dặm mà là phố phía sau phủ Trịnh vương, lỵ sở huyện Thọ Xương trước tại phường Báo Thiên, phố Cấm Chỉ là cửa trước phủ Trịnh vương, kết hợp với xét Bản đồ thời cuối Lê thì vị trí Vương phủ có thể biết được.

Quảng Minh đình

Đình ở phía đông nam mé ngoài thành (ngoài cửa Nam Huân cũ), bắt đầu có từ đời Lý, gọi tên là đình Trữ Vân, là một toà nhà ngói, trên có một tầng gác, đời Lê gọi là đình Quảng Văn, trước đây mùa xuân các cống sĩ thi Hội yết bảng ở đây; triều Tây Sơn đổi làm lầu Minh Chiếu. Tháng 2 năm Nhâm Thân (1812) người còn sót lại của công thần tên là Trương Chí chống Tây Sơn thiêu huỷ lầu này. Buổi đầu quốc triều trùng tu, đặt tên là đình Quảng Minh, phàm chiếu truyền, thư văn đều niêm yết tại đây, sau đổi tên là đình Dịch.

Văn Miếu

Lê qui Thăng Long thành đồ (Thăng Long thời cuối Lê).
Lê qui Thăng Long thành đồ (Thăng Long thời cuối Lê).
Miếu ở thôn Minh Giám ở mé ngoài cửa Đông Nam (nay là nhà số 6 thôn An Trạch), tục gọi là Phố Giám, là nơi được xây dựng vào mùa thu năm Thần Vũ thứ 2 triều Lý (1070), phía sau đặt Trụ Giámđể cho học trò trọ. Các triều Trần, Lê đều có trùng tu, các toà chính điện và hai bên tả hữu cột kèo sơn quét đều mới, bốn bên đều xây tường gạch; phía trước miếu có biển đề Thái Học môn (nay đổi làmVăn Miếu môn), phía sau miếu có biển đề Minh Luân đường, các khoa Tiến sĩ các triều đều có bia ghi ở đây. Trải nhiều lần binh lửa, phong cảnh vẫn như xưa, hồi đầu quốc triều, Tổng trấn Quận công xâythêm một toà Khuê Văn các ở phía trong Nghi môn, thể chế trang nhã đoan chính, hàng năm vào ngày đinh hai mùa xuân và thu đều sai quan đến tế. Bốn tháng trọng (tháng giữa mỗi mùa) đều khảo khoá sĩnhân ở đây, nay thì tạm để hoang phế.

Miếu Linh Lang

Miếu ở trại Thủ Lệ, huyện Vĩnh Thuận, thờ Linh Lang Đại vương. Vương là con vua Lý, nhân thế lập đền thờ. Nơi đây có một hồ nước, chiều dài 435 trượng, rộng 43 thước, nước rất trong, phần nhiều trồng sen, có tên khác là hồ Linh Lang, miếu tại bờ bắc hồ.

Đền Uy Linh Lang

Đền ở địa phận hồ Trúc Bạch, phường An Hoa, huyện Vĩnh Thuận, lưng tựa vào La Thành, phía tây nhìn ra sông Nhị, tương truyền rằng thờ thuỷ thần Uy Linh Lang Đại vương. Vương và 6 đệ tử chia làm thần các thôn Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, An Hoa. Khoảng niên hiệu Vĩnh Thọ đời Lê, vỡ đê sông Nhị Nhà, quan binh phường An Hoa không làm gì được, Soái phủ Trịnh Vương cầu đảo với thần, thuỷ hại ngừng ngay. Từ đó ban cấp 30 quan tiền thuế để đèn nhang thờ cúng (An Hoa tức An phụ).

Đền Khải Thánh

Đền tại thôn Minh Giám, Văn Miếu nội thành, nguyên là nhà Trụ Giám thời Trần Lê, đầu thời Gia Long đổi làm đền.

Đền Cao Sơn

Đền tại phường Đông Tác huyện Thọ Xương, đời truyền thần là một trong năm mươi người con của Lạc Long Quân theo cha về núi, là vị Đệ nhị Tả Sơn Cao Sơn Đại vương của đền Tản viên. Đền thần nguyên ở xứ Thanh Hoa, vua Tương Dực triều Lê khởi binh dẹp loạn, từng cầu với thần. Khi đến Thăng Long, thần từng hiển linh trợ giúp, vua bèn lập đền lễ tạ ở đây, nhân thế lập thành đền thờ. Lê Tung triều Lê đã soạn văn khắc vào bia đá, đến nay vẫn còn.

Đền Bạch Mã

Ô Quan Chưởng
Ô Quan Chưởng
Đền tại phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương, thờ Long Đỗ thần quân Quảng Lại Bạch Mã đại vương. Đời truyền khi Cao Biền đời Đường đắp thành Đại La, ngẫu nhiên đi chơi ra ngoài thành phía đông,bỗng mây đen kéo đến tối mù mịt, thấy một đóa mây năm sắc vụt lên từ lòng đất, sáng loá cả mắt, trong đó có một dị nhân mặc áo hoa cưỡi con rồng đỏ cầm thẻ vàng, theo mây lượn quanh, một lúc lâu mớitan. Biền lo sợ định trấn áp. Đêm ấy nằm mộng thấy thần bảo rằng:

- Ta là tinh Long Đỗ, ở đây đã lâu. Nghe nói ông đắp thành tại nơi này nên đến ra mắt, việc gì phải trấn áp?

Biền giật mình tỉnh giấc, than rằng: “Ta không thể làm cho người xa phục được chăng? Cớ sao lại có sự lạ lùng như vậy?” Bèn chôn bùi bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên, đến sáng nhìn xem thí là bùa bằng đồng đã nát vụn thành bụi. Biền càng lấy làm lạ, nhân lập đền ngay nơi ấy để thờ.

Đền Quý Minh

Đền tại Giáp Đông phường Đông Hà huyện Thọ Xương. Đời truyền rằng ngài là một trong năm mươi người con của Lạc Long Quân theo cha về núi, là vị Đệ tam Hữu Sơn Quý Minh Đại vương đền Tản Viên. Triều Lê có lệ vào ngày Lập Xuân thì sai quan Doãn phủ Phụng Thiên đến đền Quý Minh ở phường Đông Hà tế trước bằng trâu rồi sau mới đến đền Bạch Mã hành lễ.

Đền Chiêu Ứng

Đền tại phường An Thái, huyện Vĩnh Thuận thờ Chiêu Ứng Đại vương, người thời Lý Nhân Tông, họ Vũ, tên là Phục, hai vợ chồng xả thân nhảy xuống trầm mình nơi hai sông Tô Lịch và Thiên Phù hợp lưu để trấn áp mối hoạ sông Nhĩ Hà ăn lở thành Đại La, vì thế lập đền thờ

Đền Đồng Cổ

Đền tại phía nam thôn An Thái Đông, huyện Vĩnh Thuận, trên sông Tô Lịch, thờ Minh chủ Linh Vũ Đại vương. Đền vốn ở núi Đồng Cổ, xã Đan Nê, huyện Yên Định, Thanh Hóa. Xưa Lý Thái Tổ đem quân đánh Chiêm Thành, nghỉ lại ở châu Trường An, đêm nằm chiêm bao thấy một người mặc chiến bào đến bảo:

- Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe nói vua đánh phương Nam , xin theo quân lập công.

Đến khi bình Chiêm xong, kéo quân về kinh, vua liền sai lập đàn ở kinh thành để tế. Khi Thái Tổ băng, Thái Tông vâng theo di chiếu lên ngôi, đêm mộng thấy thần báo rằng:

- Ba hoàng đệ là Dực Thánh, Đông Chinh, Vũ Đức mưu việc làm phản.

Hôm sau quả ba vương phục binh trong thành nội đánh gấp các cửa thành, vua lập tức đem binh đánh lại. Đến khi nội loạn đã yên, đế khen có công “hiệp ứng trợ thuận”, sắc phong làm Thiên hạ Minh chủ. Hàng năm cứ vào ngày 4 tháng 4 bắt trăm quan đến Hội thề. Lời thề rằng: “Phàm kẻ làm tôi bất trung, thần sẽ tru diệt”. Mọi người đều kính sợ.

Đền Địa Linh

Đền tại phường Tây Hồ, huyện Vĩnh Thuận, xây dựng năm Vĩnh Tộ thứ 4 (1622).

Đền Trung Liệt

Đền tại phường Cổ Tân, huyện Thọ Xương, xây dựng khoảng niên hiệu Chính Hoà đời Lê, thờ Hán Thọ Đình hầu, nhưng cho công thần tuẫn nạn Lê Lai thờ cúng.

Đền Bố Cái

Đền tại phường Thịnh Quang, huyện Vĩnh Thuận, thờ Bố Cái Đại vương. Vương họ Phùng tên là Hưng, người Đường Lâm. Khoảng niên hiệu Đại Lịch đời Đường cử binh đánh phá phủ trị, lấy lại được Giao Châu, tất cả 12 năm. Người trong nước kính trọng, sau khi chết hiển linh, nên lập đền thờ. Tục nước ta gọi cha là bố, mẹ là cái, cho nên hiệu thần là Bố Cái Đại vương. Phàm có nghi án trộm cướp, đền đền thề, đều linh ứng.

Đền Hồng Thánh

Đền tại thôn Ngự Sử huyện Thọ Xương, thờ Hồng Thánh đại vương. Vương họ Phạm tên là Cự Lượng, thời Lê Đại Hành làm quan ở đài Ngự sử. Đến thời Lý Thái Tông vì phủ Đô hộ có nhiều án ngờ, quan xử án không quyết được, mới lập đền thờ trong ngục, muốn cầu một vị thần sáng suốt để trừng trị kẻ gian giấu tội, bèn tắm gội đốt hương cáo với Thượng đế. Đêm ấy mộng thấy một người mặc áo đỏ nói là Thượng đế “khẩu sắc” cho Phạm Cự Lượng làm Ngục chủ An Nam Đô hộ phủ. Tỉnh dậy hỏi tả hữu, đều nói như vua đã thấy trong mộng bèn tức khắc sai lập đền thờ, sắc phong là Hoằng Thánh Đại vương, sau vì kiêng huý nên đổi làm Hồng Thánh.

Chùa Bà Ngô

Chùa ở bên cạnh phường Bà Ngô, huyện Thọ Xương, bên tả là con đường lớn, phía trước có một thửa ao, tên cổ là chùa Ngọc Hồ, vua Thánh Tông đến chùa hành hương, khi xa giá quay về, gặp một thiếu nữ thơ thẩn trước chùa, tay cầm một nhánh mẫu đơn, ngâm khẽ một bài thơ luật:

Bà Ngô phong cảnh thảnh thơi,

Đố ai kết mối sầu này cho xong.

Ước chi về đến ngự cung,

Thì ta sẽ tỏ tấm lòng cho hay.

Đế nghe lấy làm lạ, ngờ là con hát của giáo phường, xuống xe nhìn xem, thì thấy một giai nhân tuyệt thế, nhân mệnh cho theo xa giá. Về đến cửa Đại Hưng bỗng thấy một con hạc trắng bay lại gần bên cạnh, thiếu nữ liền cưỡi hạc bay lên không mà đi. Đế mới biết là tiên nữ, tưởng nhớ không nguôi, sai làm đài Vọng Tiên bên cạnh chùa, đế thường đến đài nghỉ lại qua đêm, mong được tái ngộ, thường thường mơ màng nửa gối trước ngọn đèn tàn trên đài. Bỗng một đêm đã khuya, chợt nghe tiếng ngọc bội, quả thấy tiên nữ cưỡi hạc mà đến, võ vai vua bảo rằng:

- Thiếp là tiên trên trời, hôm trước dạo chơi danh lam, có mối duyên một buổi gặp gỡ, nhưng rốt cuộc không thành ước hẹn trăm năm; hương hoả ba sinh, chỉ dừng ở đây mà thôi. Nhưng cảm tình quyến luyến của bệ hạ nên đến báo cho bệ hạ biết. Trước mặt có một thửa ao, trong ao có một khối núi đá, thường khi có sự lạ, mấy tháng sau trong hoàng thành tất có hoả hoạn và dịch bệnh, cần gấp trừ đi.

Nói xong, có một trận gió thơm bay lại, tiên nữ bèn cưỡi hạc bay đi. Đế tỉnh giấc mới biết là chiêm bao. Hôm sau đến chùa hỏi sư trụ trì, quả có chuyện ấy, liền sai danh sư làm bùa đào sâu ba thước giữa hồ để yểm. Đào lên, đất đỏ tự máu, bèn phá núi đá vứt xuống sông, lấp ao thành đất bằng, những hiện tượng quái lạ mới hết. Xét tên Bà Ngô thực bắt đầu từ thời Lý. Thời Lý Thần Tông có một người đàn bà rất đẹp, gả cho người Trung Quốc, nhà rất giàu có, thấy chùa này bị hỏng nát liền xuất tiền sửa sang, cột kèo vì thế đổi mới, người làng nhân thế gọi chùa là chùa Bà Ngô, có lẽ muốn nói chùa do người đàn bà Ngô (Tàu) xây dựng. Sau khi bà mất, người trong thôn nhớ ơn, nhân gọi làm tên thôn. Tên thôn Bà Ngô, chùa Bà Ngô bắt đầu từ đó.

Miếu Tiết Phụ

Miếu ở trên sông Tô Lịch, thôn Trung, huyện Vĩnh Thuận. Thời Trần quân Nguyên sang xâm lấn, những việc giết chồng cướp vợ thường thường xảy ra. Trong thôn có một người phụ nữ, dùng nhan khả ái, đã gả chồng. Một hôm quân Nguyên qua đó, thấy cô liền cưỡng hiếp. Cô không chịu, nói nhỏ rằng: “Nếu chàng yêu thiếp hãy tạm buông tay”. Giặc tin là thật thả ra, người đàn bà liền chạy tắt ra sông Tô Lịch tự tử. Người trong phường đem việc ấy tâu lên vua, vua Trần ban khen nàng chữ “tiết hạnh”, cho bảng treo cửa nhà. Người trong phường lập đền thờ bên sông, đặt tên là đền Tiết Phụ.

Đình Kiên Nghĩa

Đình vốn là nơi Lê triều tiếp sứ Trung Quốc sang phong. Tương truyền trong khoảng năm Vĩnh Lạc nhà Minh, Trương Phụ đóng ở thành Đông Quan, đắp phù kiều ở đây đẻ tiện qua lại, đặt tên là cầu Bến Đông (tục gọi là cầu Cháy). Phía bờ bắc là quán đậu thuyền, là nơi “Thanh khách” (khách người Thanh) tụ họp. Sau loạn bị huỷ hoại, hiện đình là nơi thờ thần. Hồi đầu triều Nguyễn, sứ thần Trung triều đến, cũng nghênh tiếp ở tại đây, gọi là Hà đình. Bờ bắc là cung Gia Quất.

Tịch điền hành điện

Điện tại địa giới xã Hồng Mai, do Thuần Hoàng đế triều Lê cho xây, có đàn Tiên Nông, cao 7 thước, rộng 36 trượng., Quan Canh đàn cao 5 thước, rộng 40 trượng. Thời Trung Hưng về sau, sau khi hành lễ xong sai quan phủ doãn cày ruộng, sau lại uỷ cho quan Bộ Hộ. Nay trại Quỳnh Côi có đàn và di chỉ tịch điền.

Phủ Phụng Thiên

Phủ tại huyện Thọ Xương phía Nam thành. Trước phủ có chợ lớn, là nơi tụ tập đông nhất trong 5 chợ của đô thành. Hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đều lệ thuộc. Trước nhà Lê đặt làm 36 phường, huyện Thọ Xương là 8 tổng Tứ Túc Tứ Nghiêm, huyện Vĩnh Thuận thượng trung hạ nội an thành 5 tổng. Phố phường có nơi lấy tên điện mà đặt, như Huy Văn, Giảng võ, chẳng hạn; có nơi lấy tên cửa thành mà đặt, như Trường An, Bảo Khánh; có nơi lấy tên đàn mà đặt, như Xã Đàn, Khâm Thiên, Công Bộ, Ngự Sử; có nơi lấy tên quân mà đặt nha Thị Vật, Tiền Tiệp. Từ Lê Trung Hưng về sau, hàng năm vào ngày 27 tháng Giêng làm lễ Khánh thọ, Phủ doãn trước tiên làm am cỏ, đặt giường ngự ở Thị sở, quan khánh tiết vâng mệnh đem cây thiên tuế trong sân triều ra, về binh chuẩn bị đủ hương án, nghi trượng nhã nhạc, tiền hô hậu ủng đến thảo đường, đặt lên giường, thày cúng quỳ khấn, nếu bói được quẻ tốt thì hoan hô. Trăm quan mặc triều phục vọng bái rồi đi ra. Quan Khánh tiết lại vái rồi đưa vào trong điện, thị vệ vâng đặt trước xa giá, đế ngự đến cung Vạn Thọ, trăm quan lạy mừng, chia ban đứng hầu, được ban yến, ban rượu mai (mai tửu). Các triều đại đều theo như thế, người xem đều coi là thịnh hội; sau loạn Phủ lỵ vẫn còn; đầu đời Gia Long đổi làm Dinh phủ Hoài Đức, đến khoảng năm Minh Mệnh mới dời đến xã Dịch Vọng huyện Từ Liêm.

Giảo nghệ trường

Giảo nghệ trường (trường thi võ nghệ) ở phía tây thành là nơi các triều vua nhà Lê giảng tập võ nghệ. Năm Bảo Thái thứ 4, mới lập Vũ học sở (tại An Viên, Thọ Xương), có miếu thời Tiên sư Thái công, đặt quan để dạy học viên, thường phối hợp thi Bác cử ở đây. Về sau mở trường ở Đống Đa, xây lầu Quan Thí như kiểu điện Giảng Võ; những người thi đỗ Tạo sĩ, vinh quy xong thì lễ yết Tiên sư ở miếu. Sau loạn, di chỉ và cây cối vẫn còn. Khoảng năm Minh Mệnh, các kỳ lão châu Đồng Nhân được chuẩn y đổi làm Miếu Trưng Vương. Xét thấy Miếu Tiên sư thờ Vũ Thành Vương là chính vị, Tôn Tử, Quản Tử và 8 người dưới chia thờ hai bên, đưa Trần Hưng Đạo đại vương đời Trần vào tòng tự. Hàng năm xuân thu tế vào ngày tuất tháng trọng.

Đoan Môn

Đoan Môn
Đoan Môn
Chính giữa lầu Ngũ Môn của Vọng Cung có hai chữ Đoan Môn, đó là Ngũ Phượng Tinh lâu của triều Lý, bên ngoài có Tam Môn lâu, thế chế cũng như vậy. (Xét thấy thời Lý, năm Sùng Hưng thứ 5 córồng vàng hiện ở điện Đoan Minh, năm đầu niên hiệu Quang Thuận gọi là cửa Đoan Minh, về sau đổi thành Đoan Môn). Thời Lê cũng theo thế, bên trong xây điện Kính Thiên làm nơi coi chầu.

Thạch lan

Năm Quang Thuận thời Lê làm lan can đá ở thềm điện, thường thi Tiến sĩ ở đấy, người đỗ được yết bảng ở Đông Hoa Môn. Từ thời Trung Hưng về sau đặt làm điện thờ trời đất, còn coi chầu thì ở Kính Thiên Môn; hồi đầu quốc triều đổi làm Vọng Cung.

Phong sứ và tiến triều

Lệ định trăm quan tiến triều đến cửa Đại Hưng thì phải xuống kiệu, người theo hầu đến cầu Ngoạn Thiềm thì dừng lại, như lại thì phải dừng ở các cửa Đông Trường An, Nam Huân, không được vào cửa Chu Tước; chuông khánh nếu quá 50 chiếc thì tập trung ở ngoài Đoan Môn. Sứ Trung triều sang phong đến Cửa Nam của quốc đô, người đi theo xuống ngựa, đến bên ngoài cửa Đông Trường An thì Khâm sứ phải xuống kiệu. Quốc vương đón ở hai bên tả hữu trong cửa, đến điện Kính Thiên, đặt long đình, các quan chia ban đứng hai bên tả hữu Đoan Môn và thềm rồng đá điện hình.

ĐànNamGiao đời Lê

Đàn tại cửa Nam Triền Kiều thành Thăng Long, là nền đàn các triều Lý, Trần tế trời đất. Đời Lê Trung Hưng, Trịnh Tây vương làm điện Chiêu sự vào mùa thu năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Hưng ở đây.

Ruộng hoa

Trại Ngọc Hà huyện Vĩnh Thuận, dân làm nghề trồng hoa, đất có khoảng 8,9 mẫu. Ruộng hoa liên tiếp nhau, có tên là Trại Bát Mẫu, lại có tên là Chùa Bát Mẫu, tục truyền có tám người đàn bà dựng một ngôi chùa tại đây, trong chùa phần nhiều thờ tượng phụ nữ, nên thành tên.

La Thành Trúc Ổ

Sử ghi rằng vào thời nội thuộc nhà Đường, năm Nguyên Hoà thứ 3, Trương Chu làm Đô hộ sứ nước ta, từng đắp thành Đại La; đến năm Hàm Thông thứ 7, Cao Biền làm Tiết độ sứ đống Phủ trị, đắp thêm thành Đại La, nữ tường, Vọng Lâu, chu vi 982 trượng 50 thước, thân cao 2 trượng 5 thước. Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra đây, sử dụng luôn thành cũ, các triều cũng nhân theo đó. Cuối thời Lê mới trồng cây “miêu nha” chu vi bốn mặt, lại đặt cửa ô (ổ môn). Đến khi Tây Sơn giữ nước, từ Bính Ngọ (1786) đến Canh Thân (1800), phía nam thành chặt phá hầu hết. Năm Tân Dậu (1801) niên hiệu Gia Long mới cho dân vùng lân cận theo gốc cũ mà trồng lại. Năm Nhâm Tuất lại trồng thêm, phía nam từ Vạn Xuân men theo đền Đồng Vọng, phía Tây từ Đồng Vọng ven qua An Lãng, Yên Quyết đến chỗ Thụy Chương và An Hoa giáp nhau.

Đồn Thuỷ

Đồn Thuỷ tại bên cạnh Tây Long cung, đặt làm “thuỷ trại” để cho thuyền bè đậu, mỗi nơi đều có một xưởng, ở cạnh sông lớn; thuyền vận tải và thuyền tuần canh đều đậu ở bến sông, hình thế trên dưới hàng lối tiếp nối, ngày đêm tuần phòng, tiếng mõ không lúc nào dứt.

Hoè Nhai

Phố gần Nhĩ Hà, phía trên giáp Thạch Khối, phía dưới giáp Đồng Xuân. Tuy ở trong nột thành nhưng nhà dân vắng vẻ, chùa cổ u nhàn, giống như một vùng thôn quê tịch mịch. Trước có một bà tên gọi Bá Âu, giỏi ca hát ở phố ấy dạy nghề hát xướng, đêm ngày không lúc nào vắng. Sau khi thay đổi triều đại, sự phồn hoa chỉ còn lại một hai phần, nay là phố Hàng Than, tịnh không còn tung tích chốn bình khang nữa.

Điếm Táo Điếm Lâm

Người đời truyền rằng Điếm Táo Điếm Lâm thời Lê là điếm nghe việc của Ngũ phủ chúa Trịnh. Điếm tất phải ở gần cạnh vương phủ, nhưng không tường địa điểm tại đâu. Xét thấy đời Lê không đặt chức Tể tướng, chính sự quy về Lục bộ; Chưởng Thượng thư chính là Tể tướng. Trung Hưng về sau chúa Trịnh lấy Nguyên soái tổng quốc chính, chọn quan trong triều lấy tư cách bản quan giao thêm vào hầu lệnh chỉ, gọi là Chưởng phủ sự, Thự phủ sự; Quyền phủ sự là Chưởng binh bính; thuộc Lục bộ thì gọi là Tham tụng, Bồi tụng, tức là Tể tướng vậy. Lục phiên thì Thiêm sai, Soái tuý lệ thuộc; Phiên cũng như Bộ. Như thế gọi là Ngũ phủ, các quan phủ liêu ngồi ở chính đường các điếm “nghe” chính sự, bát Bính đảm nhiệm. Các quan văn võ trong triều đình không có lệnh chỉ không được dự.

Kỳ đài

Thăng Long thành tức là thành Đại La cổ, Lý Thái Tổ từ Hoa Lư dời đô ra đấy; nhân vì rồng hiện nên đặt tên là Thăng Long. Người Minh xâm chiếm nước ta đổi là thành Đông Quan. Lê Thái Tổ phục quốc, lấy lại tên cũ, cung điện và cửa thành đều theo thể chế nhà Lý, trong thành các đời cũng có thay đổi, bản triều có xây thêm, sáng lập năm cửa, đó là Chính Đông, Chính Tây, Chính Nam, Đông Nam, Chính Bắc. Trước môn đình dựng một toà kỳ đài, trên đài treo một cây cờ lớn để làm quân hiệu, gọi là Chiếu hồng tâm, sắc màu rất đẹp mắt; mỗi cửa thành lại có một lầu, trên lầu đặt trống để báo thời khắc ban đêm; mỗi khi sang canh tiếng trống kéo dài không ngớt. (Tương truyền Kỳ đài là nền cũ cửa Chu Tước).

Cầu Đông

Cầu Đông thuộc Cửa Đông, phường Đông Hà huyện Thọ Xương, nhân vì sông Tô Lịch từ Nhĩ Hà chảy vào nên xưa có cầu đá. Trên cầu có chợ, bán đủ thịt cá rau hoa, có tên là Chợ Hoa, ở gần Cửa Đông thành. Các chợ lớn đều có ca nhi thổi sáo chơi đàn, người trong chợ xem thưởng suốt ngày.

Mai Dịch

Mai Dịch ở ngoài Cửa Nam La Thành, trước có Dịch đình tại phường Hoàng Mai, dân có nghề bán rượu. Bên cạnh đường lớn có mộ cổ những người trung hiền, rất linh dị, thôn nữ bán rượu đi qua tất vào cầu cúng; Nam giáp Thịnh Liệt, Kiều Thị phần nhiều bán rượu ở đây.

Lò đúc tiền Trúc Bạch

Phường Trúc Bạch là nơi đúc tiền của nhiều triều đại. Thợ đúc đều là người Đồng Xá Đại Từ, là nơi buôn bán làm nghề đúc rèn tụ tập, cũng là một nơi đại đô hội trong các phường.

Nguồn: Xưa & Nay, số 251 & 252, 1/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.