Huy hiệu Hồ Chí Minh làm tại sở đúc tiền Paris năm 1946
Tấm huy chương không được biết đến
Năm 2000, Phòng Huy chương nhận được một cái có vẻ như là một dự án hay một ý đồ đầu tiên nhằm sản xuất một tấm huy chương (xem hình 1) (1): mặt phải, tượng Hồ Chí Minhnhìn phía bên phải; phía trên dòng chữ VIET NAM DAN CHU CONG HOA, hai bên có hai ngôi sao năm cánh; trên cạnh huy chương ký tên VU CAO DAM; mặt sau để nhẵn. Việc thực hiện chân dung không nổi lắm và gờ nổi hơi mềm. Chất liệu đồng thau, đường kínhh 79mm (có đường viền, huy chương thực sự chỉ có 74,5mm), nặng 150,18g; mặt sau không có gì. Huy chương hơi lõm và không đều ở giữa, hình như đã bị biến dạng. Cách thức sản xuất khó mà xác định. Các kỹ thuật viên Sở Đúc tiền Paris mà tôi đưa cho xem đều có ý kiến khác nhau. Họ loại bỏ giả thuyết cho rằng đây là một mô hình để làm một vật nhỏ hơn. Ý kiến chung cho rằng đây là một bản dập thử trên một phôi dập quá mỏng đối với một huy hiệu lớn như vậy; đường quanh mép ngoài đã bị tán bằng búa, có thể là để làm nổi đường viền. Mặt phải bị lõm xuống rõ ràng xảy ra sau, do nhiều cú đập bằng búa, vì còn thấy có những vết đập trực tiếp. Cách làm đó cho thấy đây không phải là việc dập của Sở Đúc tiền Paris. Theo các kỹ thuật viên thì người làm đó không nắm được nghệ thuật khắc tiền và huy chương nên phải giao công việc này cho tư nhân có xưởng nằm bên bờ phải sông Seine chạy đến tận quận XX, mà đến những năm 1940-1950 họ vẫn còn dập huy chương. Năm 2008, hãng Platt đã trình bày trong tập kỷ yếu một huy chương được lưu ý vì nó gần giống dự án của Phòng Huân chương và cũng ký tên Vu Cao Dam: VIET NAM DAN CHU CONG HOA, phía dưới hình Hồ Chí Minhở hai bên là hai ngôi sao năm cánh; trên cạnh ký tên VU CAO DAM; mặt sau phẳng (2). Đường kính (68mm) giống như nhiều huy chương được dập tại Sở Đúc tiền Paris.
Huy chương dập ở Sở Đúc tiền
Gần đây, một người bạn cho biết cái huy chương đó được dập tại Sở Đúc tiền Paris vì nó có hình cái sừng đựng tiền trên mép, mà trong tập kỷ yếu của hãng Platt không nói đến; thông tin đó đã rọi ánh sáng vào những tìm tòi của tôi: lúc nào, như thế nào và tại sao Sở Đúc tiền Paris lại dập một huy chương hình vị lãnh tụ cách mạng và mang tên nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam? Huy chương được dập ở Sở Đúc tiền, thì Phòng huy chương phải nhận được một bản lưu chiểu; và quả thật Sổ đăng ký lưu chiểu có ghi ở mục Đến của Sở Đúc tiền từ tháng 7 đến tháng 12-1946: “18.358 Ho Chi Minh 68[mm]”, không có tên người khắc. Tấm huy chương càng khó tìm thấy… nhưng đúng là loại được bán của hãng Platt, với trên mép có hình sừng đựng tiền và bằng đồng thau (BnF-MMA. DL 18 358; đồng thau, đường kính 68mm, 127,04 g, hình 2). Chữ khắc là chữ Việt Nam nhưng không có dấu, đúng ra là phải viết Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hồ Chí Minh(3). Tên nghệ sĩ cũng vậy, phải là Vũ Cao Đàm. Chữ in cũng giống như bản dự án, chỉ hơi khác là chữ không đậm nét bằng; đặc biệt các chữ o, c và g rất tròn chứ không hơi bầu dục; con mắt cũng được chỉnh lại. Khác nhau giữa huy chương này và dự án gắn với truyền thống của các nhà khắc chạm và kỹ thuật viên Sở Đúc tiền cũng phụ thuộc vào vật liệu. Việc thu nhỏ đường kính là do sự vận dụng khuôn mẫu cổ điển về các huy chương của Sở Đúc tiền Paris; cũng như độ dày của cạnh huy chương cũng tuân thủ truyền thống của Sở. Việc thay đổi hình dáng chữ nhưng vẫn giữ chiều cao là do phải “thu hẹp” lại để giữ dòng chữ nằm trong khuôn mẫu nhỏ hơn dự án. Cuối cùng độ nổi được cải thiện là nhờ tay nghề thợ khắc của Sở. Có thể là người nghệ sĩ đã trình bày dự án với Sở Đúc tiền khi được đặt hàng và yêu cầu người ta tôn trọng nghệ thuật và hình dáng tượng người; những chỗ khác nhau là do việc sản xuất mang tính chuyên nghiệp hơn.
Hồ sơ của Sở Đúc tiền Paris không lưu giữ một tài liệu nào về việc dập huy chương này, ngoài một câu ghi trong danh mục các huy chương gửi đến hai nơi lưu chiểu: trong Danh mục các Huy chương phát hành tháng 12-1946 và gửi Lưu chiểu, ta thấy ở số 96 “Ho Chi Minh 68mm Vu Cao Dam 2 [ mẫu ]”; trang này có ký tên người kiểm soát và đề ngày 31-12-1946. Bảo tàng Tiền Paris còn giữ ở Paris một mẫu huy chương này, và ở Pessac khuôn dập bằng thép, mang số 5003 và ngày tháng chạm khắc “21x11x1946” cho thấy chính xác lúc việc khấc khuôn dập được hoàn thành và sẵn sàng sử dụng (hình 3, ảnh của Sở Đúc tiền Paris).
Nhưng có một điểm rất thú vị: huy chương này không có trong Báo cáo gửi Bộ trưởng Tài chính năm 1948. Tất cả các huy chương trong Danh mục các Huy chương phát hành tháng 12-1946và gửi Lưu chiểu, đều được kể đến ở một trong ba bản tóm tắt (Lịch sử kim loại, Huy chương trang trí hay In lại các huy chương trong bộ sưu tập của bảo tàng) trong chương Sản xuất huy chương, trừ tấm huy chương Hồ Chí Minh. Sở Đúc tiền đã dập năm 1946 một tấm huy chương trở thành “chống đối” năm 1948, khiến nó phải biến mất khỏi Báo cáo gửi Bộ trưởng Tài chính…trong đó vẫn có việc dập huy chương thống chế Pétain khắc ở Turin năm 1941 (Báo cáo thứ 27, tr.125). Vậy cái gì đã xảy ra?
1946, năm phức tạp
Cuộc bầu cử Quốc hội đã khiến phái tả chiếm đa số (Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản), tướng de Gaulle phải từ chức ngày 19-1-1946; ngày 23, đảng viên xã hội Felix Goin lập chính phủ ba thành phần MRP, ĐXH, ĐCS. Để đánh dấu sự chuyển hướng về vấn đề thuộc địa, người ta dùng một từ ngữ mới: Bộ Thuộc địa trở thành Bộ Pháp quốc Hải ngoại và giao cho đảng viên xã hội Marius Moutet giữ. Chính phủ gồm có 8 bộ trưởng cộng sản, tiến hành đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) do Hồ Chí Minhđứng đầu. Ngày 6-3-1946, Jean Sainteny phái viên của Cao uỷ Pháp và Hồ Chí Minh, chủ tịch nước VNDCCH, cùng với Vũ Hồng Khanh, phái viên đặc biệt của hội đồng bộ trưởng, đã đi đến thoả hiệp và ký một “Hiệp định sơ bộ”, trong đó điều 1 viết: “Chính phủ Pháp công nhận Cộng hoà Việt Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng, thuộc Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp”; vấn đề thống nhất Việt Nam (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) sẽ quyết định bằng trưng cầu dân ý; phụ lục tính đến việc triệt thoái quân Pháp trong 5 năm (4). Một hội nghị sẽ triệu tập để xác nhận thoả ước đó và cụ thể hoá một số điểm. Có vẻ như đã tránh được chiến tranh.
Nhưng Thierry d’Argenlieu (Cao uỷ Pháp ở Đông Dương) và phe thuộc địa (5)đánh giá hiệp định đó là một “Munich Đông Dương” và tìm cách phá hoại (6); tướng Leclerc chống đối kịch liệt d’Argenlieu: ông ta sợ sẽ nổ ra “một cuộc chiến giống như đã từng xảy ra ở Tây Ba Nha đối với Napoléon”. Hội nghị họp ở Fontainebleau, được chuẩn bị trước ở Đà Lạt giữa Raoul Salan, cầm đầu phái đoàn quân sự Pháp và Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng VNDCCH. Hồ Chí Minhcó Salan đi theo, rời Hà Nội đi Paris bằng máy bay ngày 30-5-1946. Nhưng vào thời điểm đó tình hình chính trị đã thay đổi: dự thảo hiến pháp bị bác bỏ (ngày 5-5) và một Quốc hội mới được bầu ra (ngày 2-6), trong đó cánh tả không còn đa số tuyệt đối: Félix Gouin từ chức ngày 12-6, ngày mà chiếc máy bay chở ông Hồ và Salan phải chuyển hướng đến Biarritz; phải chờ một chính phủ mới thành lập để tiếp chủ tịch Việt Nam ở Paris. Sainteny chịu trách nhiệm tiếp Hồ Chí Minhở Biarritz.
Georges Bidault (MRP) nhận chức ngày 22-6, cả đảng MRP và ĐXH đều muốn quay trở lại với Hiệp định 6-3. Ngoài ra, ngày 1-6-1946, trái với các hiệp định, d’Argenlieu đã tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nam kỳ; các thủ lĩnh của phe đa số mới tìm thấy lợi ích trong cuộc lật lọng này nên giấu nhẹm, không thông báo cho phái đoàn Việt Nam biết, nhưng họ cũng hay tin qua phát thanh trên máy bay. Cuối cùng, ngày 22, ông Hồ cùng Sainteny hạ cánh xuống sân bay Bourget treo cờ Pháp và Việt Nam; ông được Marius Moutet vẫn giữ ghế bộ trưởng đón tiếp. Là khách chính thức của chính phủ Lâm thời nước Cộng hoà, ông được đón theo nghi thức của một cuộc viếng thăm Nhà nước (ngày 1 đến ngày 5 tháng bảy), tiệc chiêu đãi, đặt hoa trước đài Chiến sĩ vô danh, đi thăm các cơ quan,… (7). Hội nghị Fontainebleau bắt đầu ngày 6-7-1946, Hồ Chí Minhcầm đầu phái đoàn Việt Nam, Max André cầm đầu phái đoàn Pháp. Với dư luận nước Pháp và phần lớn giới chính khách, một hiệp nghị có thể thoả thuận: Liên hiệp Pháp có thể cứu vãn nền hoà bình. Nhưng trong hậu trường, sự việc không diễn ra tốt đẹp và hội nghị phải treo lại ngày 1-8 vì những bất đồng trong vấn đề thống nhất Việt Nam. Trong khi hội nghị ngừng họp, Hồ Chí Minhgặp tướng Leclerc và những nhân vật tán thành tôn trọng Hiệp định 6-3. Ngày 12-9, hội nghị kết thúc vì những bất đồng không thể giải quyết và những hoạt động phá hoại của nhóm d’Argenlieu-Valluy. Salan gặp Hồ Chí Minhlần cuối ngày 12-9, ở Soisy-sous-Montmorency tại nhà Raymond Aubrac, người đã cho lãnh tụ Việt Nam trú khi hội nghị bị hoãn. Ngày 14-9, Hồ Chí Minhvà Marius Moutet ký “tạm ước Pháp-Việt” nhằm bảo tồn những lợi ích kinh tế và văn hoá của nước Pháp và tránh những xung đột quân sự; văn bản còn chỉ ra rằng Quốc gia Việt Nam dưới hình thức “Cộng hoà Dân chủ Việt Nam”. Nhưng tinh thần của 6-3 đã chết.
Nhưng cánh tả lại thắng trong cuộc bầu cử ngày 10-11, d’Argenlieu và tướng Valluy biết rằng chính phủ không ủng hộ chúng trong đường lối hiếu chiến, và sợ bị điều trần về hoạt động của mình, chúng quyết định đẩy nhanh việc thực hiện đường lối “căng thẳng tích cực” nhằm tạo điều kiện cho việc phát động Chỉ thị số 2, một kế hoạch bí mật do tướng Val-luy hoạch định ngay từ 10-4 để lật đổ chính phủ Việt Nam (8): những cuộc đụng độ nhỏ “chứng minh” cho vụ oanh kích của hạm đội Pháp vào Hải Phòng (ngày 23-11), rồi cuộc chiếm đóng; cánh nhà binh khởi động quá trình đảo chính trong khi chính phủ và tướng Leclerc yêu cầu d’Argenlieu dừng lại tất cả và chấm dứt hẳn “phương pháp có từ thời chinh phục” (9). Ngày 12-2, Léon Blum, thủ tướng mới, nhắc lại rằng đường lối đối với Đông Dương phải do một chính phủ hợp pháp quyết định, chứ không phải do “nhà chức trách quân sự hay các nhà thực dân dân sự” đưa ra. Bây giờ d’Argenlieu và bộ tham mưu của ông ta sợ một uỷ ban điều tra về “âm mưu của bộ ba d’Argenlieu-Valluy-Pignon”: ông quyết định làm chuyện đã rồi; y nhiễu loạn những cuộc liên lạc giữa Hà Nội và Paris và phát động cuộc chiến. Ngày 19-12, quân Pháp tấn công và chiếm Dinh Chủ tịch nơi Hồ Chí Minhở; Chính phủ Việt Nam rút vào bí mật. Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bắt đầu.
Từ tháng 3 đến tháng 9-1946, hoà bình hình như đang ở trong tầm tay; Hồ Chí Minhđược tiếp và chào đón như một đối tác, một người bạn của nước Pháp: chính lúc đó đã có quyết định dập một huy chương.
Phải chăng là một nghệ sĩ xu thời?
Ý tưởng đó rõ ràng do Vũ Cao Đàm đưa ra. Sinh ra trong một gia đình nhà nho khá giả (cha ông là Vũ Đình Thi, người sáng lập trường thông ngôn Hà Nội), ông theo học tại trường Mỹ thuật Hà Nội năm 1926 và tốt nghiệp năm 1931, thủ khoa bộ môn điêu khắc; ông nằm trong nhóm nghệ sĩ trưng bày tại Triển lãm thuộc địa 1931. Năm 1932, ông được học bổng sang Pháp học và ở trong Nhà Đông Dương của Khu đại học. Năm đó, ông trưng bày tại Triển lãm Nghệ thuật thuộc địa ở Roma. Càng ngày ông càng hướng về hội hoạ. Dưới thời Đức chiếm đóng, ông có một sự nghiệp tương đối sáng sủa: Nhà nước Pháp đã mua một bức tranh của ông (1942), ông trưng bày tại phòng tranh Joly Hessel (1943) và ở Salon Mùa thu mà ông là thành viên từ 1943. Sau giải phóng, ông đi lại với những nghệ sĩ có xu hướng cộng sản, và trưng bày tại phòng tranh Roux-Hentschel (1945). Jean Sainteny đã ghi lại một cách tế nhị rằng “vào lúc đó [khi Hồ Chí Minhđến Biarritz] và trong suốt thời gian ở Pháp, nhiều người Việt Nam ở Pháp đến gần ông Hồ và tình nguyện giúp đỡ. Dễ dàng nhận thấy rằng những người này có nhiều xu hướng khác nhau…”. (10)Vũ Cao Đàm rõ ràng là trong số đó: thật vậy, trong thời gian Hồ Chí Minhở Paris (tháng 7 đến tháng 9-1946), Tháng 7 Vũ Cao Đạm đã tạc tượng lãnh tụ Việt Nam. Bức tượng đó, do tính chất “chống đối”, đã được cất giấu tại nhà một chủ trang trại đảng viên đảng cộng sản. Năm 1975, sau giải phóng miền Nam Việt Nam, con gái Vũ Cao Đạm là Marie-Claire Vũ, đã lấy lại và cho đúc đồng ở Tây Ba Nha (11). Huy chương có lẽ là một đơn đặt hàng “cơ hội” của nghệ sĩ muốn tỏ lòng trung thành với chế độ mới. Sau thất bại của hội nghị Fontaine-bleau và chiến tranh bùng nổ, Vũ Cao Đạm xa dần chính thể Dân chủ Cộng hoà và đất nước mình. Năm 1949, ông định cư hẳn ở Pháp, đầu tiên ở Paris, rồi sau về miền Nam để ở cho đến khi qua đời (12).
Không đúng lúc…
Tất cả những chuyện đó đều xảy ra không đúng lúc. Trước hết là diễn biến sự việc: năm 1946, người nghệ sĩ, ban giám đốc và nhân viên Sở Đúc tiền Paris và dư luận chung chỉ biết tình hình qua báo chí và những điều nhà chức trách muốn nói; phải lục lại hồ sơ mới biết được sự thật và diễn biến xâu chuỗi các sự kiện dẫn đến chiến tranh. Với tấm huy chương này, chúng tôi chỉ có một ngày tháng hoàn toàn chắc chắn, ngày 21-11-1946, khi hoàn thành khắc khuôn đúc. Thế nhưng ngày 21 lại nằm giữa lúc nổ ra sự kiện Hải Phòng (ngày 20) và vụ oanh kích thành phố (ngày 23): lúc đó báo chí bị cánh nhà binh đầu độc đã trình bày vụ việc như là một cuộc tấn công bỉ ổi của Việt Minh chống lại các lợi ích của Pháp (13). Nhưng vì chính phủ Pháp và Bộ Quốc phòng không tán thành hành động của Valluy-d’Argenlieu, căng thẳng được giải toả đầu tháng 12-1946. Hơn nữa, lời kêu gọi dư luận và công nhận khiến “nhà cầm quyền quân sự và bọn thực dân dân sự Đông Dương” phải dè chừng. Ngày 17-12, quốc hội biểu quyết nguyên tắc tranh luận về vấn đề Đông Dương. Vũ Cao Đạm có cứu được tấm huy chương của mình không?
Sợ có cuộc tranh luận đó, nhóm Valluy-d’Argenlieu đẩy nhanh sự việc: ngày 19 chính phủ Việt Nam bị tấn công và chiến tranh bắt đầu. Từ ngày đó, việc dập tấm huy có hình Hồ Chí Minhlà không thể được. Như vậy dự án làm huy chương của Vũ Cao Đạm ra đời trong không khí hân hoan tháng 7-1946, và do vậy nó được ban giám đốc Sở đúc tiền tiếp nhận thuận lợi, họ không thấy có trở ngại nào khi dập một tấm huy chương gọi là kỷ niệm chuyến đi thăm của chủ tịch Việt Nam và khai mạc hội nghị Fontainebleau. Người nghệ sĩ “đem lại sự giúp đỡ của mình” tưởng rằng đây là cơ hội để bày tỏ lòng trung thành; những nhân vật chính trong việc này không biết đến những mưu toan lật đổ của d’Argenlieu và tưởng Valluy, và huống chi nó sẽ đưa đến sự đổ vỡ, và người mà Paris đón chào hồi tháng bảy sẽ trở thành “thủ lĩnh Việt Nam” trong tháng 12. Quá trình thiết kế một huy chương đòi hỏi phải có thời gian dành cho lao động và chất liệu, mà đôi khi chính trị thì thường tăng tốc và rối rắm.
CHỦ THÍCH:
(1) BnF-MMA. 2000-101, do Jean-Pierre Garnier tặng.
(2) Kỷ yếu của Hãng Platt, tháng 5-2008, số 2969.
(3) Ta thấy những đồng bạc dập ở Việt Nam năm 1946 (loại 5 hào, 1 và 2 đồng), các chữ đề tên nước và chủ tịch cũng không có dấu.
(4) P.Devillers, Paris, Saigon, Hanoi: Les archives de la guerre 1944-1947, Paris 1988, tr.148. Sau 30 năm, hồ sơ quân sự được mở cho các nhà nghiên cứu và cho thấy Cao uỷ Pháp và cánh quân nhân đã báo cáo láo với các chính phủ kế tiếp nhau, đã hành động không đếm xỉa đến chính quyền dân sự và chuẩn bị chiến tranh từ tháng 3-1946, với sự đồng loã của phe thuộc địa.
(5) Phe thuộc địa, tức là “bọn Nam kỳ”, chủ yếu gồm, ngoài cánh nhà binh và quan chức Pháp, còn có nhóm Rivaud (ngân hàng, trồng cao su, gỗ…), nhóm Michelin (cao su), giám đốc đồn điền Nguyễn Tân Cương, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, sẽ trở thành “Chủ tịch chính phủ Nam kỳ” (trước kia đã được toàn quyền Decoux cử vào Đại hội đồng Kinh tế lý tài, rồi Phó chủ tịch Phòng Thương mại và cuối cùng đứng đầu Sở Lúa gạo), luật sư Béziat, nhà trồng cao su Bazé, nhà trồng lúa Gressier, kỹ sư Nguyễn Văn Xuân và nhà báo La Chevrotière. Ở Paris, Jean Beaumont, cựu dân biểu Nam kỳ, con rể chủ nhà băng Rivaud và bản thân là chủ ngân hàng, giữ vai trò trụ cột của nhóm áp lực Nam kỳ.
(6) Alexandre Varenne, chủ tịch Hiệp hội Quốc gia vì Đông Dương thuộc Pháp, chủ trương “duy trì chủ quyền của Pháp ở Đông Dương” và chê trách Sainteny đã ký Hiệp định 6-3 là “những nhượng bộ vô lối cho bọn cách mạng đã tiếm quyền ở Bắc kỳ” (G.David, Chroniques secrètes d’Indochine (1928 – 1946), Mémeries Asiatiques,2 tập, Paris 1994, II, tr.718).
(7) J.Sainteny, Au Viet Nam face à Ho Chi Minh, Paris,1970, tr. 88-93.
(8) P.Devillers, sđd, tr. 179-180, 249-250. Ngày 12-12. Valluy chuẩn bị một “hành động mạnh để vô hiệu hoá về chính trị và quân sự chính phủ ở Hà Nội”: 1- Hành động mạnh chống chính phủ Hà Nội, 2- Nắm giữ các căn cứ hải quân Hải Phòng - Hạ Long, 3- Nắm căn cứ không quân Hà Nội cần thiết để vô hiệu hoá ông Hồ, 4- Tất cả đều phải sẵn sàng vào cuối 1946 (Devillers, Sđd, tr. 240-241).
(9) Ý nói những biện pháp mà quân viễn chinh Pháp đã vận dụng từ thời xâm chiếm Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
(10)Marie-Claire Yannick Vũ (sinh 1942), nghệ sĩ đương đại sống ở Majorque từ 1963 và là vợ của nghệ sĩ Ben Jakober năm 1973; bà cùng chồng điều hành Quĩ Yannick y Ben Jakober ở Sa Bassa Blanca (Majorque).
(11)Những bản tiểu sử ít ỏi của ông đều im lặng về giai đoạn 1940 – 1944 và 1946.
(12)Trên thực tế một vụ khiêu khích của Pháp đã tạo điều kiện cho đại tá Dèbes tiến hành cuộc thảm sát hơn 6.000 người khiến cho Cao uỷ Hải quân phải kinh hoàng, Jacques Raphael – Leygues tuyên bố: “Đấy là Guernica!” (Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, Cách mạng và phản cách mạng dưới thời thuộc địa, Paris, 1966, tr.372).








