Hợp chất tạo ảnh mới giúp làm sáng tỏ nguyên nhân của bệnh Alzheimer
Các kết quả ban đầu, được đăng tải trực tuyến trong tạp chí Annals of Neurology của một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Pittsburgh và Đại học Uppsala ở Thụy Điển, cho thấy các dữ liệu thu thậptrên một số người sử dụng PIB, được tạo hình ảnh với thiết bị chụp cắt lớp phát xạ positron, tỏ ra có triển vọng tốt. Tiến bộ này có thể giúp chẩn đoán bệnh Alzheimer và tiến triển của bệnh, đồngthời mở ra một phương pháp để nghiên cứu các tác động của các loại thuốc chữa bệnh tiềm năng.Theo Tiến sĩ Steven DeKosky, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Alzheimer, nếu các nhà nghiên cứu muốn tác động vào nguyên nhân cơ bản gây bệnh, họ cần có khả năng hiểu cơ chế này và đây chính làphương pháp các nhà nghiên cứu cần sử dụng để quan sát. Cho đến nay, phương pháp duy nhất chẩn đoán mắc bệnh là sau khi bệnh nhân đã tử vong, vì việc quan sát chính xác sự nhiễm vữa chỉ có thể thựchiện được thông qua khám nghiệm tử thi. Mathis, Giáo sư về phóng xạ của trường Y Pittsburg, cho biết khả năng nhuộm mới này "có thể cho phép các nhà khoa học nghiên cứu nguyên nhân chính của bệnhbằng cách đánh giá mức độ kết tủa amyloit ở người nhiều năm trước khi các triệu chứng bệnh Alzheimer xuất hiện". Hiểu biết này là một bước quan trọng sống còn trong nghiên cứu phát triển thuốc để cóthể tác động đến bệnh. Các nhà nghiên cứu không muốn chỉ tìm ra bệnh khi các mảng vữa đã bắt đầu hình thành. Các nhà khoa học mong muốn quan sát trực tiếp được nếu một loại thuốc có thể phòng chốnghoặc làm đảo ngược sự hình thành vữa trong thời gian dài.
Phó Giáo sư bệnh học tâm thần của trường đại học, Klunk, cho biết các kết quả rất phấn khích. PIB tạo cho các nhà nghiên cứu một công cụ mới để quan sát lượng amyloit trong não của bệnh nhân bịAlzheimer đang sống. Sử dụng PIB, các nhà nghiên cứu sẽ có khả năng theo dõi tiến triển của bệnh và đẩy nhanh tốc độ phát triển các loại thuốc mới có triển vọng nhằm hạn chế sự tạo thành amyloittrong não.
Nghiên cứu trên được nhóm nghiên cứu của hai trường đại học Pittsburgh/Uppsala tiến hành trên 25 người, 16 được chẩn đoán lâm sàng bị Alzheimer nhẹ, 6 người có tuổi mạnh khoẻ và 3 sinh viên 21 tuổi.Mặc dù nhóm người thí nghiệm nhỏ, các nhà khoa học nhấn mạnh các kết quả này là rất quan trọng. Các hình ảnh cho thấy ở bệnh nhân Alzheimer, PIB "dính" vào amyloit trong các phần của não có chứa vữa,nhưng không bám dính vào các vùng của não có nồng độ amyloit thấp. Trong thí nghiệm, không thấy có sự lưu giữ thuốc nhuộm ở 8 trong số các đối tượng nghiên cứu, tuy nhiên có sự lưu giữ thuốc nhuộm ởđối tượng thứ 9, là người già nhất trong những người già, được cho là khỏe mạnh. Các nhà khoa học cho rằng người thứ 9 này đang bắt đầu phát triển amyloit trước khi có thể quan sát thấy bất kỳ mộttriệu chứng bệnh tâm thần nào.
Theo DeKosky, mục tiêu cơ bản của nghiên cứu là phát triển phương pháp theo dõi lượng amyloit và tác động của các loại thuốc chống vữa. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu hy vọng sử dụng phương pháp này đểgiải đáp các câu hỏi cơ bản khác, như là khi nào thì sự lắng amyloit bắt đầu hình thành, có bao nhiêu amyloit trước khi các triệu chứng xuất hiện và quá trình tích lũy amyloit sẽ tiếp tục hay giảmđi. DeKosky, nhà khoa học cùng cộng tác với các nhà nghiên cứu khác để tiến hành công tác nghiên cứu và phát triển tiếp tục, rất phấn khích: "Đây là hợp chất đầu tiên và tốt nhất thực sự cho phép cácnhà khoa học có thể quan sát được bên trong bộ não của người theo cách không gây tổn hại cho cơ thể và có thể lặp đi lặp lại nhiều lần”.
Các quan chức của Hiệp hội bệnh Alzheimer, là Hội tài trợ cho nghiên cứu này, vẫn rất thận trọng. Một nhà phát ngôn của Hội cho biết các nghiên cứu có tính khích lệ, tuy nhiên thử nghiệm còn ở quy mônhỏ, cần nghiên cứu thử nghiệm nhiều bệnh nhân hơn để khẳng định và mở rộng các nghiên cứu này. Tuy nhiên, ảnh hưởng tiềm năng có tác dụng ở phạm vi rất rộng.
Tiến bộ này cũng cho thấy sự phát triển các loại vật liệu tạo hình ảnh khác có thể ảnh hưởng đến nghiên cứu về các rối loạn chức năng khác của não.
Nguồn: Technology Forecasts, 4/2004