Hồn nước nơi phố cổ
Sau đảo chính Nhật 9 - 3 - 1945, các trường Tây mà anh chị em chúng tôi theo học đều bị đóng cửa. Tôi càng có nhiều dịp đi theo mẹ về bên ngoại, có khi mẹ tôi còn cho phép ở hẳn mấy ngày để chơi với chị Trinh con bác Tư anh ruột mẹ tôi. Hồi đó thỉnh thoảng tôi lại thấy anh Tín (con bác cả chị ruột mẹ tôi lấy chồng có ấp ở bên Bắc Ninh) thỉnh thoảng tạ về ở mấy ngày rồi lại ra đi. Mấy năm trước anh trọ học ở đây nhưng từ năm 1944 anh đã bỏ học. Anh cải trang người đi buôn đem theo tay nải lớn như mấy ông buôn tơ lụa từ Hà Đông đem ra cho bà tôi, thực tế bên trong chứa khoai đồ đã được các dì tôi phơi khô để dành cho anh. Tôi nghe lỏm anh đã đi chiến khu. Tôi vốn là đứa trẻ hay tò mò xem xét các cửa hàng cửa hiệu bán những gì, có hôm thấy cả truyền đơn của Việt Minh dán ngay cạnh nhà mấy ông Ấn kiều bán vải gần đó. Tôi kể lại cho cả nhà nghe lúc ăn cơm. Bác tôi lừ mắt nhìn tôi khẽ bảo: “Chớ vạ miệng nói ra ngoài, thế họ viết những gì kể nghe”. Tôi nhớ mang máng là kể tội phát xít Nhật cướp thóc lúa làm dân ta chết đói… Điều đó khiến tôi liên hệ đến phố nhà tôi vốn vắng vẻ mà từ cuối tháng 5 tôi đã thấy lác đác trước cổng nhà hay bên kia đường có xác người chết đói, mặt mũi tay chân thâm xịt, da bọc xương. Tôi sợ nhất là buổi trưa hè nghe tiếng xe đổ rác lúc đó lại kéo theo rơ-moóc chở đầy xác chết chất cao, đầu tóc rũ rượi, chân cẳng thò ra khỏi chiếu trông như các que củi khô. Xe từ sở Lục lộ (Công chính) gần sở Chữa cháy ngay phố tôi, xếp xác từ các xe bò do mấy anh hướng đạo sinh đem đến để xe rác chuyển ra các hố sâu nghĩa trang Hợp Thiện qua con đường Lò Đúc xuống ô Đống Mác.
Thời thế biến chuyển hết sức mau lẹ. Những ngày gần khởi nghĩa tháng 8, mẹ tôi gửi hẳn tôi lên ở Hàng Đào vì nhà tôi lúc đó có bà chị họ ở điều trị bệnh lao đang chuyển bệnh rất nặng. Cửa hàng bấy giờ nhộn nhịp người đến mua vải. Tôi thú vị được đo vải cho hai dì tôi bán vải đỏ, vải vàng không ngớt. Mọi người xì xào không biết người ta mua làm gì nhiều thế. Nhưng có lẽ cửaa hàng bên bà tôi nhỏ chỉ bán các vải thường và tơ lụa nội hóa Hà Đông là chính nên họ mạnh vạn vào mua, trong khi một bà dì cùng phố có cửa hiệu to bán cả vải lụa Nhật thì không có ai đến hỏi mua các vải màu này.
Ngày 17 - 8 - 1945, đoàn người biểu tình tuần hành từ Nhà hát lớn, qua phố Tràng Tiền, đi men Hồ Gươm kéo lên Hàng Đào. Lần đầu được thầy cờ đỏ sao vàng ở nhiều nhà Phố Cổ và trong đoàn biểu tình, lúc đó chúng tôi mới vỡ lẽ vải đỏ vải vàng đã được dùng làm cờ. Ngay chị họ tôi là điện báo viên ở sở Bưu điện Bờ Hồ hôm đó cũng trang nghiêm cầm cờ Việt Minh đi đầu trong khối công nhân viên sở Bưu điện. Chưa bao giờ tôi được thấy đoàn người hàng ngũ chỉnh tề dài như thế. Các buổi tối sau đó, quanh mâm cơm bác Tư đã say sưa kể nhiều chuyện người em họ tên là Ngô Đình Mẫn - em con cô con cậu với bác tôi trước đây đã có thời niên thiếu ở cùng với bác tôi tại phủ Vĩnh Tường vào những năm 20 - đã tham gia Hội kín (thực tế là để không dùng chữ cộng sản) như thế nào. Chị Trinh và tôi cứ căng tai ra mà nghe. Cậu Mẫn quê ở La Khê, Hà Đông, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chỉ kém bác Tư tôi hai tuổi nên được ông ngoại tôi đón về nuôi ăn học lúc học tiểu học. Khi ông tôi hưu quan năm 1922 trở về Hàng Đào sống với bà tôi, cậu Mẫn đỗ vào trường Bách Nghệ Hải Phòng ra học ở đó và sau này làm nhân viên vẽ kỹ thuật cho hãng Aviat của Pháp chuyên bán và sữa chữa xe hơi ngay góc phố Rialan và Gambetta (Trần Hưng Đạo bây giờ), nay là trụ sở bộ Tài chính. Về sau cậu lại ra Hải Phòng, thỉnh thoảng ghé về nhà bà tôi gửi vali dưới gầm bệ thờ tổ tiên trên gác… Chỉ riêng bác Tư tôi biết đó là vali đựng truyền đơn, có khi có cả súng ngắn. Bà tôi thì biết rõ chuyện cậu thường quyên tiền của bà con cô bác thân thiết là những người buôn bán khá giả, có khi là cánh quan lại Nho học đã từng ủng hộ ngầm phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) có trường học mở ngay ở phố Hàng Đào trước kia. Cậu tôi tin tưởng những người này dù là tầng lớp trên nhưng đều có lòng yêu nước.
Quả thật chúng tôi thấy người Phố Cổ sống thân thiện với các Hoa kiều ở Hàng Ngang, Hàng Buồm, Hàng Bồ và Ấn kiều ở Hàng Đào nhưng rất kỵ người Pháp. Tôi nhớ trong cuốn Letres du Tokin (Những bức thư từ Bắc kỳ)của nhà văn Pháp Jean Tardieu - là con trai ông Victor Tardieu giám đốc sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương - có đoạn ông nói là rất muốn thâm nhập những gia đình ở Phố Cổ để được biết về nếp sống phong tục tập quán người Hà Nội mà không thể được. Các nhà Nho cấp tiến biết rõ là Tây đã đặt hệ thống cai trị và các cuộc nổi dậy bị dập tắt song phải chấn hưng văn hóa, học chữ Tây thay chữ Hán nhưng quyết không để đồng hóa. Phải trang bị cho mình mạnh lên, phải nâng dân trí, coi trọng thực học, như các môn khoa học thường thức, nhất là phải coi trọng cả công thương nghiệp, chờ thời cơ… Gia đình bên nội, bên ngoại tôi thời đó đều chịu ảnh hưởng lớn của Đông Kinh Nghĩa Thục, nhất là những người làm nhà giáo đã từ bỏ chữ Nho, học chữ Tây và quốc ngữ nhưng gìn giữ văn hóa dân tộc, quốc hồn, quốc túy. Tuy bị đóng cửa sau chưa đầy một năm và bị đàn áp dữ dội song ảnh hưởng của ĐKNT về mặt tinh thần dân tộc lại vô cùng to lớn. Cụ Lê Đại nhà ở Hàng Bạc ở ban soạn sách trong ĐKNT, có những vần thơ kêu gọi yêu nước bì đày đi Côn Đảo 15 năm, cụ bà ở nhà tần tảo nuôi các con. Ông nội tôi vốn là bạn đồng môn của cụ đã kín đáo giúp đỡ cụ bà lúc khó khăn. Tôi nhớ sau này cụ Lê Đại đã phúng câu đối chữ Hán khi bà nội tôi mất năm 1945 cho dù ông nội tôi đã mất từ năm 1927. Đến năm 1931, khi cậu Mẫn bị bắt ở Hải Phòng trong căn nhà có máy in truyền đơn và cờ búa liềm gần ngày Quốc tế Lao Động 1 - 5 và ra tòa đề hình cùng với nhiều người lãnh đạo Đảng Cộng sản, mọi người trong họ mới biết rõ công việc của cậu Mẫn. Sau đó cậu lĩnh bản án khổ sai chung thân, bị đày lên nhà tù Sơn La và mất ở đó năm 1933. (Hiện nay trong bảo tàng nhà từ Sơn La có ảnh bán thân của cậu lúc bị tù và tên cậu nằm ngay hàng đầu ở bia các liệt sĩ). Bà ngoại tôi, bác Tư và mẹ tôi cùng các dì vẫn thương tiếc cậu là thanh niên tài hoa, thơ hay, vẽ giỏi sớm bỏ mình vì nghĩa lớn.
Nhờ mẹ tôi cho phép lục lọi tủ sách bố tôi để lại mà tôi tự đọc sử nước nhà của Trần Trọng Kim, thơ Tản Đà, các truyện cổ tích nước Nam, và chính mẹ tôi mua thưởng cho tôi các sách giáo khoa tiểu học… mà tôi coi như học song song Văn Sử Địa Việt Nam để khi chuyển sang học tiếng Việt sau Cách mạng tháng 8 không bị bỡ ngỡ. Tôi thấy bác Tư năm đó 41 tuổi bỗng hoạt bát, năng động hẳn lên. Ngay sáng hôm 19 - 8, nghe loa kêu gọi đi mít tinh ở Nhà hát lớn, bác tôi liền cho cả chị Trinh và tôi cuốc bộ đến tụ tập trước Nhà hát lớn ngay cạnh hãng xe đạp Peugeot của Pháp thời đó. Tôi nhớ rõ đã được đọc bản hiệu triệu ký tên Nguyễn Ái Quốc và được học hát bài Tiến Quân Calần đầu tiên trong khi chờ mọi người từ xa kéo về thật đông. Sau cuộc mít tinh, bác tôi hướng dẫn cho bọn trẻ con chúng tôi về nhà trong khi người lớn đi làm phận sự mà sau này chúng tôi mới biết là đi giành chính quyền ở Bắc bộ Phủ và trại Bảo An Binh. Có một tối, khi loa ngoài đường của thanh niên kêu gọi mọi người hãy đến trước cửa nhà dầu Shell lúc đó do hiến binh Nhật chiếm đóng (nay là trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ) để đòi thả một số thanh niên ta bị Nhật giam tại đó. (Ít lâu sau tôi được biết chính là anh Tín cũng đã bị giam ở đó từ đầu tháng 8 do nhóm thanh niên xung phong của anh đi diễn thuyết hô hào ủng hộ Việt Minh ở rạp hát Tố Như phố Hàng Bạc, riêng anh bảo vệ cho người diễn thuyết lại bị lộ và bọn Nhật đã đưa anh về đó giam cầm). Bác Tư tôi bỏ bữa cơm đã dọn, lại kéo hai chị em tôi đi đến đó. Song đến góc phố Hàng Bài lại được biết vấn đề đã giải quyết xong. Đến ngày 2 - 9 - 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu đọc Tuyên ngôn Độc lập ở vườn hoa Ba Đình lịch sử thì mọi gia đình Hà Nội lúc đó, nhà nhà ở Phố Cổ cũng thắp nhang trước bàn thờ tổ tiên để báo tin nước nhà đã được độc lập. Đó là một ấn tượng sâu đậm trong tôi. Sau bao năm đấu tranh, qua nhiều cuộc nổi dậy bị thất bại, những cuộc khủng bố đán áp của thực dân Pháp trong 80 năm qua khiến bao người hy sinh, bỏ mình vì nghĩa lớn. Ở Phố Cổ Hà Nội, nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc và hồn thiêng sông núi, mọi người như cảm nhận được nguồn sinh khí mới tràn ngập khi Cách mạng tháng 8 thành công, để rồi mười mấy tháng sau Trung đoàn Thủ đô ở đây được bà con nuôi dưỡng đã lập những kỳ tích kiềm chân quân địch suốt 2 tháng ròng. Riêng bác Hai, anh trai mẹ tôi ở phố Hàng Cá đã có người con rể là Ngô Lê Động đã anh dũng hy sinh trong trận đánh ở chợ Đồng Xuân, một người con trai hy sinh ở phố Hàng Nón ngay trong những ngày đầu kháng chiến, và một con gái là biệt động thành Hà Nội bị địch bắt khi đang dán truyền đơn và bị tra tấn đến dập phổi mà chết năm 1950. Từ năm 1951, sau khi phong trào học sinh kháng chiến trường Trưng Vương Hà Nội bị địch khủng bố và tổn thất nặng, chị Trinh đã dám nhận máy in rônêô đặt ngay phòng riêng của mình ở nhà số 21 Lò Đúc để in truyền đơn, nhân báo Nhựa sốngcủa Đoàn Học sinh Kháng chiến Hà Nội và các sách Ký sự Cao Lạng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Xung kíchcủa nhà văn Nguyễn Đình Thi… Tôi không có phòng riêng nên làm chân giao thông liên lạc chuyển sách báo từ nhà chị đến các tổ Học sinh Kháng chiến ở rải rác không chỉ ở các Phố Cổ mà nhiều nơi trong thành phố nhờ chiếc xe đạp cá nhân. Rất may là nơi in này không hề bị lộ trong suốt mấy năm, cho đến ngày hòa bình lập lại, vì chị học ở trường Sainte Marie (vốn là trường Tây, nay là bệnh viện Việt Nam - Cu Ba), và chỉ quan hệ với riêng tôi. Ngay bác Tư tôi tuy đoán ngầm chị Trinh có cán sự thanh niên hơn tuổi thường đến nhà, những lúc đó bác tôi lại kín đáo giả vờ tưới cây để cảnh giới cho chị tôi. Bác Tư đã thôi buôn bán ở Hàng Đào nhưng tôi thấy người Phố Cổ dù còn ở Phố Cổ hay đi nơi khác vẫn là những hạt giống tốt đi muôn phương, vẫn mang truyền thống đẹp của tinh hoa văn hóa dân tộc tới nơi đất mới.