Đổi thay trong cách ăn ở của người Hà Nội thời thuộc địa
Bốn tòa nhà công đầu tiên của người Pháp xây năm 1887 gần bờ Hồ Gươm, quanh vườn hoa Paul Bert, tục gọi là vườn hoa Nhà kèn. Đó là nhà Kho bạc, tòa Thị chính, nhà Dây thép (bưu điện) và dinh Thống sứ Bắc kỳ. Đấy là công trình của kiến trúc sư Auguste - Henri Vildieu, nguyên sinh viên Trường Mỹ thuật Paris, phụ trách xây dựng dân sự từ giữa 1894 và 1907. Ông còn là người vẽ kiểu cho những công sở lớn theo phong cách tân cổ điển của thành phố như nha Cảnh sát (Công an Hà Nội ngày nay), Câu lạc bộ sĩ quan, nha Giao thông công chính (sau là Bộ Thủy lợi) và dinh Toàn quyền (1906). Đó là những đường cong của phong cách Tân nghệ thuật, sự đăng đối của Nghệ thuật Trang trí, sự chỉnh chu của Phong trào Hiện đại hay cái lạnh lùng của trường phái Chức năng (xem Philippe Papin, Sđd).
Còn đối với nhà tư thì người ta đã đưa ra nguyên tắc chung về xây dựng mà bác sĩ E. Courtois đã xác định như sau: “Ngôi nhà lý tưởng sẽ được xây trên một chỗ đất cao tự nhiên, móng của nó bằng đá và bằng gạch cách nhiệt xây thành vòm, bên trên là tầng trệt” (tạp chí Revue indochinoise,1900). Ngoài ra còn phải: cách các ngôi nhà bản xứ càng xa càng tốt, mặt chính nhìn về hướng bắc, có hàng hiên chạy xung quanh, rộng từ 2 đến 3m, khoảng cách giữa mái ngói và trần nhà phải cao, sàn lát gạch, bếp và nhà phụ tách rời về phía tây nhằm tránh ẩm thấp và hơi nước từ đất bốc lên, tránh khỏi bị mốc, tránh được ánh nắng trực tiếp chiếu vào, cả khí lạnh về mùa đông, sự xâm nhập của côn trùng… Đó là hình ảnh của những ngôi nhà doanh trại của quân đội Pháp mà ngày nay chúng ta còn thấy trong Bảo tàng Lịch sử quân sự quanh Cột cờ.
Nhưng đến khi xây dựng khu phố Tây mới sau khi phá thành Hà Nội, thì những ngôi nhà tư của các viên chức cao cấp Pháp được mọc lên theo ý thích của từng chủ nhân ngôi nhà. Tùy theo xuất thân của người chủ, mà người ta du nhập các phong cách kiến trúc địa phương của các miền trên đất Pháp. Đó là những biệt thực mang dáng dấp của kiến trúc vùng Corse, Nice hay Marseille miền đông - nam nước Pháp; những ngôi nhà lớp đá đen vùng Anger; mái nhọn miền bắc Pháp hay mái bằng kiểu Địa Trung Hải; biệt thự vùng Alsace miền đông - bắc với vách có đố gỗ, nhà có vọng lâu vùng Provence… Một số kiến trúc phá cách đầu thế kỷ XX cũng xuất hiện, như biệt thự Schneider bên bờ Hồ Tây (Philippe Papin, Sđd). Một số nhà nghiên cứu kiến trúc Pháp (như Christian Pedelahore de Lodi) nhận xét rằng kiến trúc ở các khu phố này hơi “táp nham”, không theo một phong cách nhất quán. Nhưng theo tôi chính trong sự lựa chọn tùy hứng đó lại làm nên cái đa dạng của kiến trúc thành phố. Những ai quan tâm đến nghệ thuật kiến trúc, chắc sẽ tìm thấy ở đây nhiều phong cách kiến trúc khác nhau, mà không cần phải sang bên Tây mới được chiêm ngưỡng.
Nhưng đồ sộ nhất trong những kiến trúc Pháp là Nhà hát thành phố, đứng sừng sững đầu đường Tràng Tiền, được coi như là “Champs - Élysées” của thành phố thuộc địa, với những bậc thang bằng đá, lớn hơn nhiều nhà hát của các thành phố lớn nước Pháp. Phỏng theo mẫu của Opéra Garnier ở Paris, được hoàn thành năm 1911 sau hơn 10 năm xây dựng, đến nay vẫn là nhà hát đẹp nhất của nước ta, mà những nhà hát của Sài Gòn hay Hải Phòng cũng do người Pháp dựng nên, không thể sánh được.
Tháng 7 - 1921, một hội đồng gồm các quan chức thành phố và thầy thuốc đã biểu quyết quy định từ nay các nhà xây dựng trong khu phố Tây phải có thể tích ở trên 100 m 3và mật độ mỗi người dân phải có 25 m 3nhà ở, cùng với một cái sân bên ngoài tối thiểu là 50 m 2. Tất cả các nhà phải cách tường rào ngăn cách với nhà bên cạnh hơn 2m. Đấy chính là chỗ khác nhau giữa các phố Tây với phố ta, không có cảnh nhà cửa chen chúc chật chội.
Sự vận dụng phong cách Pháp kéo dài cho đến những năm 1920. Đến lúc này, dưới ảnh hưởng của kiến trúc sư Ernest Hébrard, người đầu tiên được Giải thưởng lớn Rome năm 1904, nhà cầm quyền Pháp đã chấp nhận một “phong chách Đông Dương” với những ngôi nhà có nhiều mái lồng vào nhau và đầu nóc cong lên, với rất nhiều cửa và hàng cột thon thả, những ô văng lợp ngói hình bán nguyệt, xen kẽ giữa đá và gỗ. Đó là sự tìm tòi kết hợp giữa hai phong cách Á và Âu, tạo nên những kiến trúc độc đáo mà ngày nay ta còn thấy ở trường Đại học Đông Dương, 1927 (nay là Đại học Dược), Bảo tàng Viện Viễn Đông Bác cổ, 1931 (nay là Bảo tàng lịch sử), Nha Tài chính Đông Dương, 1931 (nay là Bộ Ngoại giao).
Làn sóng kiến trúc đó sẽ được thay thế khi trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1927, với một phân ban kiến trúc, đã đào tạo nên gần 100 kiến trúc sư (KTS) người Việt. Trong khi những tòa nhà công thương dành cho các KTS Pháp, thì KTS Việt lại vẽ kiểu cho những ngôi nhà tư của giới thượng lưu và trung lưu bản xứ. Một số đã tạo nên sự kết hợp hài hòa hơn giữa hai phong cách Âu - Á, phù hợp với khiếu thẩm mỹ và điều kiện khí hậu của địa phương. Ngày nay ta vẫn có thể thấy những ngôi nhà đó náu mình một cách kín đáo trên các con đường nhỏ giữa phố Huế và đường Bà Triệu, đem lại cho thành phố một dáng vẻ độc đáo. Đáng chú ý là khu Đông Dương học xá xây dựng từ năm 1938 phía nam thành phố nằm bên ngoài đê La Thành (sau này trở thành trường Đại học Bách khoa đầu tiên của Hà Nội) và những biệt thự quanh hồ Haleais (Thiền Quang) do các KTS Việt Nam vẽ kiểu, xây dựng trong những năm cuối của thế chiến thứ hai, là sự kết hợp thành công giữa hai phong cách kiến trúc Âu và Á. Dù theo phong cách nào, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, các KTS của Hà Nội đã xây nên gần 200 biệt thự. Đó không phải là một con số nhỏ. Có lẽ vì vậy mà đến nay các “ngôi nhà thuộc địa” đó vẫn được dư luận thừa nhận là đẹp, và những kiến trúc đó được coi là di sản của thành phố.
Sự hình thành một lối sống mới
Những thay đổi về cấu trúc của thành phố thời thuộc địa đã kéo theo sự thay đổi của lối sống thị dân. Tất nhiên, những đổi thay đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chủ yếu là đời sống kinh tế, sự ra đời của tầng lớp thị dân mới, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đem lại những đổi mới trong văn hóa dân tộc… Nhưng dù sao, nhịp sống mới của đô thị vẫn đem lại nhiều đổi thay trong tâm thức con người, dù hay dù dở, nó vẫn là một lối sống mới của người dân Hà Nội:
- Trước hết là rời bỏ sinh hoạt chu kỳ theo tâm thức của người dân làng xã. Hà Nội đã trở nên một thành phố theo đúng nghĩa của nó, thời gian chu kỳ của sinh hoạt làng quê không còn nữa, mà đã chuyển thành sinh hoạt tuyến tính của thời hiện đại. Chợ không còn họp theo phiên, mà diễn ra mọi ngày trong tuần, có khác chăng là ngày chủ nhật có đông hơn đôi chút. Tuy nhiên, các hội đình, hội làng của Hà Nội xưa mặc dầu bắt đầu phai nhạt, nhưng vẫn tồn tại dai dẳng bên cạnh các ngày hội mới như ngày “Hội Cát tó” (quốc khánh Pháp 14 tháng 7), hội chợ (foire), chợ phiên (kermesse)…
- Người dân không còn ứng xử theo tập quán, mà biết ứng xử theo pháp luật - dù là pháp luật thực dân, còn nhiều sự phân biệt đối xử. Chỉ cần một bốt Hàng Trống, về sau thêm bốt Hàng Đậu và bốt Hàng Lọng, mà vẫn duy trì được trật tự đường phố. Cụ Hoàng Đạo Thúy kể lại chuyện Hà Nội xưa, còn nhắc đến thầy đội xếp đầu phố Hàng Gai, chuyên bắt phạt những người dân quê lên thành phố, vào… đái bậy ở ngõ Tô Tịch. Trật tự vệ sinh thành phố trở thành một yêu cầu bắt buộc với mọi người dân, chuyện lấn chiếm vỉa hè và cơi nới nhà của vốn quen thuộc trong nếp sống của người Việt xưa đang bị mất dần.
- Sự ra đời các phố Tây tạo nên cái đối lập giữa hai thế giới của tầng lớp thượng lưu (cả Pháp lẫn Việt) với tầng lớp bình dân. Nhưng có đúng như vậy không? Thực ra tầng lớp tư sản bản xứ vẫn còn chiếm số đông ở khu phố phường xưa. Vậy đây là đối lập giữa hai phong cách của khu nhà ở (biệt thự) và công sở, với khu buôn bán mang tính bình dân hơn.
Trong khu phố cổ, có sự cộng sinh giữa hai tầng lớp người giàu và người nghèo. Người giàu có nhu cầu mua sắm, người nghèo làm dịch vụ bán hàng và sửa chữa cho người giàu. Vì vậy trong khu phố cổ, người có tiền thường được thụ hưởng những dịch vụ do người nghèo đem lại. Đó cũng là điều mà hiện nay người dân phố cổ vẫn thừa hưởng, khác với những khu chung cư cao cấp mới mọc ra ở ngoại vi thành phố.
Còn trong khu phố Tây, người ta sống ở một thế giới khác. Ngoài đường không có ăn mày, không có trẻ em đánh giày đi lang thang, không có người bán hàng rong. Mọi sinh hoạt diễn ra theo cung cách… bên Tây! Không phải chỉ có người Pháp, mà tầng lớp thượng lưu người Việt cũng phải Âu hóa theo kiểu đó. Đấy cũng là cái mà ở các khu biệt thự cao cấp hiện nay người ta đang muốn thực hiện. Nhưng liệu không biết có làm được không?
- Cuối cùng ta cũng nên rút ra một bài học về quản lý đô thị. Chỉ với một bộ máy đơn giản, nhất là cảnh sát không đông như ngày nay, mà chỉ trong thời gian không dài lắm, hơn 50 năm thôi, thành phố Hà Nội đã chuyển được từ một đô thị phương Đông, lộn xộn, thiếu qui củ, để trở thành một đô thị theo chuẩn mực của phương Tây. Vậy động lực nào đã làm nên cái đó. Tôi không dám đi sâu vào phân tích mọi khía cạnh xã hội, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến mặt văn hóa, đó là sự thích nghi nhanh chóng của người Hà Nội với lối sống mới, tạo cho mình một phong cách sống phù hợp với hoàn cảnh mới. Đó là cái làm nên văn hóa ứng xử của người Hà Nội xưa.
Điểm lại một số nét trong những thay đổi về lối sống của người Hà Nội dưới thời thuộc địa, chúng ta hãy xem cái gì là khả thủ, cái gì là lỗi thời, để từ đó mà tìm ra một lối đi cho văn hóa đô thị hiện nay, điều mà nhiều nhà nghiên cứu văn hóa vẫn đang băn khoăn.








