Điều trị đái tháo đường týp 2
Khi nào tiêm insulin?
Đái tháo đường týp 2 là một bệnh tiến triển, trong đó insulin do cơ thể tiết ra giảm lần hồi theo thời gian đến cạn kiệt sau nhiều năm tiến triển. Do đó, thuốc điều trị phải tăng dần theo nhu cầu điều trị, tuỳ mức độ nặng nhẹ và thời gian mắc bệnh: kiêng ăn kết hợp với vận động, rồi một thứ thuốc uống trị đái tháo đường, rồi hai thứ thuốc uống, rồi nhiều thứ thuốc uống, rồi vẫn uống thuốc kết hợp thêm một lần chích insulin buổi tối, rồi… cuối cùng chỉ dùng insulin đơn độc để điều trị.
Một công trình nghiên cứu rộng ở Anh kết luận: kiểm tra thật kỹ đường huyết bằng thuốc giúp giảm các biến chứng về mạch: giảm 0,9% HbA1C* sau 10 năm làm hự 12% nguy cơ biến chứng của bệnh và 25% nguy cơ bệnh vi mạch, cũng chứng minh giảm 10% nguy cơ tử vong.
Cơ quan chính thức ở Pháp có những lời khuyên như sau:
- Mục tiêu tối ưu cần đạt cho HbA1C là dưới 6,5%;
- Nếu HbA1C bằng 6,5%: không thay đổi điều trị;
- Nếu HbA1C giữa 6,6 và 8% ở hai lần xét nghiệm liên tiếp, nghiên cứu thay đổi cách điều trị dựa trên tỷ lệ lợi/hại nếu thay đổi;
- Nếu HbA1C trên 8% ở hai lần xét nghiệm liên tiếp, được khuyên thay đổi cách điều trị.
Nếu không đạt được mục tiêu bằng thuốc uống, có chỉ định thêm insulin. Cũng cần đặt vấn đề trong trường hợp rối loạn dinh dưỡng, bệnh thần kinh đau nhức, bệnh võng mạc đái tháo đường, để kết hợp insulin trong điều trị.
Kết luận : Tỷ lệ hémoglobine glyquée* là tham số chính yếu để theo dõi bệnh.
Lợi ích của insulin
Có khá nhiều; ngừa hôn mê tăng áp lực thẩm thấu, cải thiện tổng trạng chung và suy nhược, ngừa biến chứng vi mạch và các mạch to, với điều kiện sử dụng sớm trong phác đồ điều trị.
Cần thông tin rõ về dấu hiệu hạ đường huyết và cố gắng giảm thiểu phiền toái như tuỳ thuộc một người để tiêm thuốc. Hướng dẫn cách kiểm tra đường huyết bằng máu mao mạch (lấy ở đầu ngón tay). Tạo một môi trường cảm giác an lành, đánh tan thành kiến sai lầm: dùng đến insulin là giai đoạn cuối cùng của bệnh, “sắp chết đến nơi”.
Những cái mới
- Điều trị đái tháo đường tuý 2 ở người lớn tuổi là một sự luồn lách, trong từng trường hợp một, giữa mục tiêu cần đạt, nhưng lại chệch do tuổi đời và bệnh khác kèm theo; giữa muốn tránh dùng nhiều thuốc, hạn chế nguy cơ hạ đường huyết và suy thận; lại cũng cần tránh kiêng cữ trong chế độ ăn uống ở người già.
- Trong điều trị đái tháo đường týp 2 cần kết hợp nhiều thứ thuốc để đạt mục tiêu; thí dụ: 2 lớp hạ đường huyết, 2 hoặc nhiều lớp hạ huyết áp, thuốc giảm lipid huyết, thuốc chống kết tập tiểu cầu…
________________
(*) HbA1C: Hemoglobin (Hb) là sắc tố hô hấp cho màu đỏ của hồng cầu. Theo danh pháp quốc tế, sau ký hiệu Hb phải thêm một chữ hoa, một hay vài chữ (La tinh hay Hy Lạp), hay số nói lên đặc điểm của hemoglobin đó. HbA là hemoglobin bình thường của người trưởng thành; có hai thứ A1 là 80% và A2 là 20% hemoglobin bình thường.
Trong sinh hoá học có hiện tượng bám glucoz(Glucosylation) tức glucoz bám, không phải do enzym và không đảo lộn được, vào notơ cuối cùng của một protein. Hemoglobin bình thường không thoát khỏi hiện tượng đó và có tên hémoglobine glyquée hay hémoglobine glycosylée (Pháp) (glycosylated haemoglobin: Anh). Giá trị glucoz bị bắt chiếm cân xứng với tỷ lệ glucoz huyết ngay lúc một hồng cầu non đi vào tuần hoàn chung. Suốt 120 ngày của thời gian sống trong tuần hoàn chung, hồng cầu vẫn nhớ hiện tượng bán glucoz ở một thời điểm nào đó. Có ba thứ Hb glycosylée: HbA1a2, HbA1b2, HbA1c2; chỉ có HbA1c2 là đáng tin cậy (do thói quen, bỏ số 2 sau c). Được khuyên vài tháng đo tỷ lệ một lần, còn đo tỷ lệ đường huyết ở máu tĩnh mạch buổi sáng bụng đói là đường huyết do gan tổng hợp từ tối hôm trước.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 294, 15/10/2005, tr 22








