Đầu tư cho R&D và đổi mới sáng tạo- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Vai trò của R&D và đổi mới sáng tạo
R&D cùng với đổi mới sáng tạo (Innovation) luôn đóng vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước, cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty tiên tiến, công ty đa quốc gia, với phương châm: “Để trở thành công ty luôn dẫn đầu thị trường không còn cách nào khác là luôn phải đi trước đối thủ một bước về phát triển sản phẩm và công nghệ để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng với giá cả phải chăng và chi phí tối ưu”. Các nước công nghiệp phát triển rất quan tâm đầu tư cho R&D:
Hàn Quốc và Nhật Bản, so với nhiều quốc gia khác, họ rất nghèo về tài nguyên thiên nhiên nhưng đã trở thành nền kinh tế lớn trên thế giới. Nhật Bản đã giữ vị trí là nền kinh thế lớn thứ 2 trên thế giới trong nhiều năm liền. Còn Hàn Quốc, tuy họ đi sau hơn nhiều so với các quốc gia châu Âu và do hậu quả của chiến tranh hai miền Triều Tiên (1950-1953) để lại, song với sự phát triển thần kỳ (còn gọi là “KỲ tích sông Hàn”) đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới. Một trong những nguyên nhân làm cho Nhật Bản và hàn Quốc phát triển nhanh là họ có chính sách đúng đắn và đầu tư vào R&D rất lớn. Năm 2010, Nhật bản đầu tư cho R&D là 3,3% GDP, Hàn Quốc là 3,0%, vượt cả Mỹ 2,7%, Đức 2,3%, Singapore 2,2%.
Các nguồn đầu tư cho R&D là từ ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp và tài trợ bên ngoài. Ở các nước phát triển, các tập đoàn tư nhân đầu tư cho R&D lớn hơn nhiều đầu tư của nhà nước, bình quân tỷ lệ đầu tư cho R&D từ ngân sách nhà nước so với khu vực ngoài nhà nước là khoảng 1:4 đến 1:3.
Trung Quốc đã tăng đầu tư cho R&D từ 1,1% GDP năm 2002 lên đến 1,5% GDP năm 2010 (theo số liệu của Bộ KH&CN Trung Quốc). Dự kiến, chi cho R&D của Trung Quốc sẽ đạt 2,5% GDP vào trước năm 2020. Chi cho khu vực nghiên cứu tư nhân của Trung Quốc đã tăng 40% (theo Văn phòng tư vấn chiến lược Bôz&Company và Ủy ban châu Âu-EC).
Khu vực châu Á nói chung đã tăng đầu tư cho R&D từ 27% lên 32% tổng đầu tư R&D toàn cầu (năm 2009). Trong đó phần lớn vẫn là đầu tư từ các doanh nghiệp.
Năm 2010, đầu tư cho R&D trên thế giới ước đạt 1.000 tỷ USD. Qua danh sách 72 nước được thống kê trên thế giới, thì nước có tỷ lệ đầu tư cho R&D/GDP lớn nhất là Israel (4,2% GDP) với 9,4 tỷ USD, Việt Nam thuộc loại thấp nhất (0,19%GDP).
Đầu tư cho R&D và đổi mới sáng tạo là đầu tư phát triển doanh nghiệp. Kết quả khảo sát của Global Innovation 1.000 (đánh giá toàn diện nhất về mối quan hệ giữa đầu tư R&D và hiệu quả doanh nghiệp) năm 2009, tại hơn 400 công ty trên khắp thế giới, đã liệt kê những công ty mà họ cho là đổi mới nhất. Kết quả: 7 trong số top 10 công ty đổi mới nhất cũng đồng thời nằm trong top 10 công ty chi cho R&D mạnh nhất. Và quan trọng nhất là 10 công ty đổi mới nhất có hiệu quả kinh doanh tốt hơn 10 công ty đầu tư mạnh nhất vào sản xuất kinh doanh nói chung.
2. Tình hình hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp ở Việt Nam
Đầu tư vào R&D của các công ty nước ngoài tại Việt Nam
Một xu hướng mới của đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây ở Việt nam là đầu tư vào R&D, như Công ty điện tử Samsung Việt nam (thuộc tập đoàn Samsung) đã hợp tác với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (HUT) thành lập Phòng thí nghiệm Samsung-HUT (tháng 5.2010) và hướng tới sẽ thành lập Trung tâm R&D của Samsung tại Việt Nam; Tập đoàn Hewlett Packard-HP (Mỹ) có dự án Trung tâm R&D tại Công viên phần mềm Quang Trung (TP. Hồ Chí Minh); Hãng Nokia (Phần Lan) mới đây cũng đã tuyên bố sẽ dành một tỷ lệ nhất định trong tổng vốn đầu tư vào Việt Nam cho R&D…
Tổ chức và hoạt động R&D trong các doanh nghiệp Việt Nam
Hiện nay, nhiều taaopj đoàn, Tổng công ty của Nhà nước đã thành lập mới hoặc sắp xếp lại các viện nghiên cứu, trung tâm R&D, phòng thí nghiệm trong doanh nghiệp, như: Viện Nghiên cứu Dầu khí (Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), Viện Nghiên cứu Cao su (Tập đoàn Cao su Việt Nam), Học viện Bưu chính -Viễn thông (Tập đoàn BC-VT), Vinaconex R&D (Tổng CTCP Xây dựng Vinaconex), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển SPT (CTCP dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn), Viện Nghiên cứu và Phát triển Vietttel (Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel), Viện Nghiên cứu Công nghệ FPT (Tập đoàn FPT)…
Bên cạnh đó, các khu công nghệ cao, khu công nghệ phần mềm đều thành lập các trung tâm R&D, như: Khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội), Công viên phần mềm Quang Trung, Khu công nghiệp công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh…
Ngoài ra, các tổ chức R&D ở khu vực kinh tế tư nhân cũng đã có bước phát triển. Điển hình là việc ra đời các tổ chức R&D trong doanh nghiệp, như: Viện Nghiên cứu Thủy sản (Công ty Thủy sản Bình An, TP. Cần Thơ); các phòng R&D của Công ty KIMDAN, VISSAN; các trung tâm R&D, phòng R&D, phòng thí nghiệm trong rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp CNTT, dược phẩm, thực phẩm, cơ khí chế tạo, ngành nhựa, chế biến gỗ xuất khẩu… trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Long An…
Với việc đầu tư có hiệu quả cho hoạt động R&D, nhiều kết quả nghiên cứu đã được đưa vào ứng dụng, giúp cho các doanh nghiệp làm chủ công nghệ nhập, cải tiến công nghệ, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới… đem lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điển hình như: Viettel đã nghiên cứu thiết kế và chế tạo thành công máy điện thoại cố định không dây Homephone HP6800, máy điện thoại chuyên dụng dành cho ngư dân đánh bắt cá xa bờ Seaphone 6810, thiết kế và sản xuất thử nghiệm thành công 100 mẫu thiết bị USB 3G Modem mang thương hiệu Viettel; Công ty cổ phần bóng đèn Điện Quang đã tập trung nghiên cứu và chế tạo đền Compac Điện Quang, với chất lượng tương đương với đèn ngoại nhập nhưng giá cả lại rẻ hơn và đặc biệt là tuổi thọ cao hơn; Công ty F-SOFT (thuộc Tập đoàn FPT) và Công ty cổ phần Đồng Tâm (DongTam Group) được sự giúp đỡ của Bộ KH&CN đã thực hiện đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc áp dụng các giải pháp tiên tiến và công cụ cải tiến năng suất chất lượng”. Sau 2 năm thực hiện (2009-2010), quá trình sản xuất kinh doanh và chất lượng nhân lực cũng như trình độ quản trị của 2 doanh nghiệp đã được nâng lên một cách rõ rệt.
Những tồn tại và hạn chế trong hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp
Doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN nói chung và hoạt động R&D nói riêng còn rất thấp: Trong nhiều năm qua, tổng kinh phí đầu tư cho KH&CN nói chung khoảng 0,6 % GDP, trong đó 0,5 là của Nhà nước và 0,1% là của khu vực ngoài nhà nước. Mức đầu tư cho hoạt động R&D của doanh nghiệp lại càng thấp hơn. Nếu tính tổng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ thì tỷ lệ đó của các doanh nghiệp Việt Nam vào khoảng 0,2-0,5 doanh thu, trong đó đầu tư cho R&D chỉ khoảng 0,01% doanh thu.Tuyệt đại đa số các doanh nghiệp chưa có tổ chức R&D, chưa quan tâm và chưa chủ động trong hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, phát triển sản phẩm, dịch vụ và các hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự thiếu hụt nguồ nhân lực chất lượng cao là một vấn đề nan giải trong quá trình phát triển của doanh nghiệp: Nhân lực KH&CN trong các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 7,25% lực lượng lao động. Với việc mở cửa thị trường và hội nhập thì bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực trong hoạt động R&D và quan tâm nhiều hơn tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ bằng cách đó, các doanh nghiệp mới có đủ điều kiện tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực, toàn cầu và đủ sức cạnh tranh khi ra “biển lớn”.
Việc thương mại hóa các sản phẩm R&D còn rất yếu: các sáng chế công nghệ trong nước được đăng ký bản quyền tại Cục Sở hữu trí tuệ (thuộc Bộ KH&CN) hàng năm có tăng, nhưng còn rất ít ỏi. Năm 2010, có hơn 3.200 đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ, trong đó số đơn đăng ký của các tác giả trong nước chỉ chiếm dưới 10%, còn hơn 90% là của người nước ngoài (chủ yếu là Hoa Kỳ và Nhật Bản), hầu như công nghệ và thiết bị của các nhà sáng chế trong nước chỉ có giá trị nội địa.
Công nghệ sản xuất phần lớn còn lạc hậu: Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giwois từ 2 đến 3 thế hệ. Máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình, 52% lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có 2% (tỷ lệ này ở Thái Lan là 31%, Malaixia là 51% và Singapore là 73%). Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ta đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chỉ chiếm khoảng 0,2-0,3% tổng doanh thu.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp: Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2010-2011, Việt Nam đạt điểm số năng lực cạnh tranh (GCL) 4,3 điểm, tăng só với mức 4,0 điểm trong Báo cáo 2009-2010 và đã lên vị trí thứ 59 trong tổng số 139 nền kinh tế được xếp hạng năm 2010 (năm 2009 ở vị trí 75/133). Tuy thang hạng so với năm 2009, nhưng năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo WEF vẫn thấp hơn so với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á như Singapore (hạng 3), Malaixia (26), Brunei (28), Thái Lan (38), Inđônêxia (44).
Theo bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, thù hiện nay hầu như các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ chú trọng đến khâu sản xuất và định giá sản phẩm mà chưa tập trung vào các khâu tạo nên giá trị gia tăng như R&D, xúc tiến tiếp thị (P&M). Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển, đối với R&D, nếu được phát huy tốt, có thể tạo ra tới 30-35% giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ và P&M cũng có thể tạo ra 20-25% giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ. Vì thế, nếu không đầu tư cho R&D doanh nghiệp Việt Nam khó có thể tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm toàn cầu.
3. Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động R&D và đổi mới sáng tạo
Định hướng, hoạt động R&D của doanh nghiệp rất đa dạng, nhưng cần tập trung chủ yếu vào các đối tượng sau:
Nghiên cứu và phát triển sản phẩm: Nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm mới mà thị trường có nhu cầu hoặc là thị trường tiềm năng trong tương lai phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp, trong dod ưu tiên cho sản phẩm xuất khẩu; hoặc nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa các công dụng của sản phẩm, cải tiến mẫu mã… đáp ứng theo nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và thị trường, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu theo quy định của WTO và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), cũng như đủ sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Nghiên cứu và phát triển công nghệ: Bao gồm việc nghiên cứu làm chủ công nghệ, cải tiến công nghệ hoặc tạo ra cong nghệ mới đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hoặc công nghệ sản xuất ra sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhiều nghiên cứu công nghệ còn bao gồm nghiên cứu để “giải mã công nghệ”, tìm hiểu bí quyết công nghệ (know-how), làm chủ công nghệ nhập.
Việc nghiên cứu và phát triển công nghệ, phát triển sản phẩm, ngoài việc hướng vào những công nghệ và loại sản phẩm hiện đang phát triển, thì phải hướng vào những công nghệ và sản phẩm có lợi thế so sánh, có thị trường tiềm năng trong tương lai (vì với sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN thì tốc độ đổi mới công nghệ diễn ra rất nhanh chóng, vòng đời của công nghệ và sản phẩm ngày càng bị rút ngắn, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử-viễn thông, CNTT và các clinhx vực công nghệ khác).
Nghiên cứu và phát triển về tổ chức sản xuất kinh doanh: Nghiên cứu cải tiến và bố trí hợp lý các quy trình sản xuất, các công đoạn sản xuất, tổ chức sản xuất nhằm nâng cao năng suất, kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Nghiên cứu này còn bao gồm cả hoạt động kho vận (logistic) và các quy trình phục vụ và dịch vụ của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh cần gắn với việc nghiên cứu áp dụng các hệ thống quản lý, các giải pháp tiên tiến và công cụ cải tiến năng suất chất lượng (như ISO, TQM,LeanSixSigma…).
Một số hoạt động đẩy mạnh R&D và đổi mới sáng tạo
Một là, thành lập mới hoặc củng cố, đầu tư phát triển các tổ chức R&D đã có trong doanh nghiệp như: Viện, trung tâm, phòng R&D, phòng thí nghiệm, trạm thực nghiệm… và đăng ký hoạt động KH&CN với cơ quan chức năng của Nhà nước (Bộ KH&CN, Sở KH&CN các tỉnh, thành phố). Củng cố bộ máy tổ chức, nhân lực, tăng cường đầu tư trang thiết bị và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức R&D hiện có của doanh nghiệp theo hướng thiết thực và hiệu quả.
Hai là, xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch R&D, đổi mới công nghệ theo chiến lược và các mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở chiến lược phát triển doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm và các mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra của doanh nghiệp, mà tổ chức R&D của doanh nghiệp phải phối hợp cùng với các bộ phận có liên quan trong doanh nghiệp, như: Kế hoạch, kinh doanh, marketing… để đề xuất xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch R&D, kế hoạch đổi mới công nghệ trước mắt cũng như trong dài hạn, tập trung vào những lĩnh vực sản xuất chủ lực và những lĩnh vực có lợi thế so sánh của doanh nghiệp.








