Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 05/12/2011 18:52 (GMT+7)

Công tác quản lý, bảo vệ môi trường tại một số dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng

Một số tác động xấu đến môi trường trong triển khai dự án thủy điện

Quá trình triển khai thực hiện các công trình thủy điện có rất nhiều tác động tiêu cực tiềm ẩn đến môi trường do xây dựng hồ, đập, hầm chuyển nước, đường giao thông, làm mất dòng chảy sinh thái, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hệ sinh thái cả trên cạn và dưới nước,…

Ảnh hưởng đến môi trường xã hội

- Các dự án thủy điện làm mất nhà ở, đất ở, đất canh tác, cây cối, hoa màu và các công trình kiến trúc trên đất, ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư trong vùng.

- Phần lớn người dân khi được tái định cư không quen với vùng đất canh tác mới, và cũng làm mất đi những giá trị tinh thần đã được tạo dựng nên từ nơi ở cũ.

Ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên

Nhiều diện tích rừng tự nhiên bị chặt hạ do ngập lòng hồ, xây dựng công trình cơ sở hạ tầng, thậm chí phải chặt rừng để xây dựng khu tái đinh cư, làm cho tính đa dạng sinh học trong khu vực suy giảm, môi trường sống của các loài động, thực vật bị thu hẹp và thay đổi. Bên cạnh đó, việc đào đắp, thải bỏ các chất thải xây dựng, đất đá hoặc cây cối bị chặt hạ, tạo nên cảnh quan ngổn ngang nếu không được thu dọn.

Rừng Lâm Đồng là một công trình thủy lợi khổng lồ, điềutiết nước mùa kiệt và hạn chế được lũ trong mùa mưa; hạn chế được tình trạng xói lở, rửa trôi và bạc màu; có khả năng cung cấp lâm sản, giữ gìn bảo vệ môi trường sống, cung cấp nguồn nước cho phát điện, cung cấp nước tưới cho hạ lưu cũng như lưu giữ các nguồn gen động, thực vật quý hiếm, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội không chỉ cho Lâm Đồng mà còn cho các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh.

Theo thống kê sơ bộ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời gian qua, tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, đối với công trình thủy điện lớn, để có 1 MW điện sẽ mất trung bình khoảng 10 ha đất và rừng; đối với công trình thủy điện trung bình, 1 MW mất khoảng 16 ha đất lâm nghiệp và nông nghiệp; đặc biệt với một số công trình thủy tiện nhỏ thì diện tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng bị mất rất lớn, thậm chí trung bình 1 MW mất từ 20 - 30 ha đất và rừng.

Nhiều công trình thủy điện trên cùng một lưu vực sông (thủy điện bậc thang) sẽ là một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất, mà cụ thể là việc ngăn nước của các nhà máy sẽ làm mất đi dòng chảy sinh thái của sông, ảnh hưởng đến hệ động, thực vật xung quanh. Nếu thủy điện phía trên giữ nước phát điện vào mùa kiệt nhằm đảm bảo công suất thì thủy điện phía dưới không có nước. Hoặc, vì lợi ích cục bộ, công trình thủy điện không xả nước cho dòng chảy sinh thái thì bài toán lợi ích này có thể ảnh hưởng đến canh tác của cả một khu vực hạ lưu với hàng triệu nông dân.

Ngoài ra, các công trình thủy điện còn ảnh hưởng đến nguồn nước do xói mòn; giảm lượng phù sa về hạ lưu, giảm độ màu mỡ của đất; thay đổi dòng chảy, thay đổi chế độ thủy văn vùng hạ lưu và ảnh hưởng đến hệ sinh thái thủy sinh. Nếu vùng hạ lưu không có hành lang bảo vệ an toàn và công tác tuyên truyền, phương án ứng cứu sự cố cho nhân dân trong vùng không tốt sẽ gây thiệt hại khôn lường khi các công trình thủy điện xả lũ vào mùa mưa lũ hoặc sự cố vỡ đập, sự cố trong quản lý, vận hành.

Thực trạng công tác quản lý bảo vệ môi trường các công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng

Công tác quy hoạch phát triển thủy điện

Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ năm 2005, tỉnh Lâm Đồng đã được quy hoạch 45 công trình thủy điện với tổng công suất 288,2 MW. Năm 2008, quy hoạch được tăng lên tới 57 dự án thuỷ điện vừa và nhỏ (theo Quyết định số 3476/QĐ-UBND ngày 24/12/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng), tổng công suất lắp máy là 364 MW, diện tích ngập 2.609 ha và diện tích đất để xây dựng đường giao thông, kênh dẫn, lưới truyền tải điện gần 3.109 ha. Hầu hết quy hoạch được bố trí ở các dòng chính, các chi lưu của dòng chính trong hệ thống sông Đồng Nai - La Ngà: 14 dự án trên sông Đa Dâng, 08 dự án trên sông Đa Nhim, 06 dự án trên sông Krông Nô, 06 dự án trên sông Đạ Huoai, 06 dự án trên sông La Ngà, 11 dự án trên sông Đồng Nai, 05 dự án trên sông Lũy và 01 dự án trên sông Quao. Hiện có khoảng 20 công trình đã và đang triển khai xây dựng.

Ngoài ra cũng có nhiều công trình thủy điện với công suất và dung tích hồ chứa lớn đã và đang được xây dựng như Đa Nhim, Đại Ninh, Hàm Thuận - Đa Mi, Đồng Nai 2, 3 và 4,...

Công tác quản lý môi trường các công trình thủy điện

Trong thời gian qua, sự triển khai ồ ạt các công trình thủy điện trong vùng đã xuất hiện những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến môi trường. Tuy nền công nghiệp của tỉnh Lâm Đồng chưa phát triển mạnh, nhưng việc xây dựng các công trình thủy điện tầm cỡ quốc gia trên địa bàn tỉnh phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong thời gian gần đây cũng đã làm mất rừng, tăng diện tích đất ngập nước,... ảnh hưởng không nhỏ đến sự cân bằng sinh thái, gây khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ môi trường.

Qua quá trình theo dõi, chúng tôi nhận thấy công tác quản lý môi trường các dự án, công trình thủy điện trên địa bàn có những thuận lợi và khó khăn như sau:

- Thuận lợi

Hầu hết các công trình thủy điện lớn, nhỏ triển khai trên địa bàn tỉnh đều đã lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường và được cơ quan quản lý nhà nước về môi trường các cấp thẩm định, phê duyệt.

Một số công trình thủy điện lớn đã tuân thủ nội dung của ĐTM như xây dựng khu tái định canh, định cư cho nhân dân trong vùng dự án; thực hiện các biện pháp giảm thiểu bụi, tiếng ồn, thu gom chất thải rắn; các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm dòng chảy môi trường; quan trắc định kỳ về môi trường. Ngoài ra một số dự án đã tuân thủ quy trình rà phá bom mìn, tìm kiếm và xử lý chất độc hóa học tồn dư, thu dọn lòng hồ.

Một số công trình thủy điện đã tiến hành thủ tục cấp giấy phép khai thác, sử dụng nguồn nước mặt.

- Khó khăn tồn tại

+Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:

Chưa tiến hành đánh giá tác động môi trường chiến lược (ĐMC) của các công trình thủy điện nên không dự báo được các tác động có thể xảy ra khi quy hoạch các công trình thủy điện, nhất là đối với công trình thủy điện nhỏ.

Việc thẩm định báo cáo ĐTM các công trình thủy điện thuộc phạm vi của tỉnh còn hạn chế, thiếu toàn diện, bao quát, vì thế chưa phát hiện ra những thiếu sót của dự án để đưa ra các giải pháp hành chính, kinh tế, pháp lý đảm bảo các yêu cầu tối thiểu trước, trong và sau khi hoàn thành thi công các hạng mục công trình.

Công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian qua, nhất là hậu kiểm sau thẩm định chưa được thực hiện thường xuyên, hầu hết các công trình thủy điện chưa được kiểm tra, giám sát về môi trường. Nguyên nhân là do lực lượng quản lý mỏng, thiếu phương tiện đi lại.

Là tỉnh có quy hoạch thủy điện bậc thang khá phổ biến nên việc kiểm tra các tác động do thủy điện bậc thang gây ra là rất quan trọng trong công tác quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan liên quan chưa kiểm tra việc xả nước cho dòng chảy môi trường của các dự án thủy điện, nhất là hệ thống bậc thang trên các suối nhỏ. Đặc biệt những công trình thủy điện chuyển nước sang lưu vực khác mà không trả lại cho dòng sông cũ (thủy điện Đa Nhim, Đại Ninh, Hàm Thuận - Đa Mi), hoặc những công trình kênh dẫn (nhà máy xa đập) như thủy điện Đa'Mbri có đoạn sông cạn dài 12,25 km, Đa Dâng 2 có đoạn sông cạn khoảng 4 km, ... sẽ tạo thành các dòng sông cạn nước (dòng sông chết) phía sau đập, làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái dưới nước, đến cân bằng nước phía sau đập và hạ lưu nếu không có các hệ thống sông suối khác bổ trợ. Đây là một tác động tiềm ẩn đến môi trường rất đáng ngại.

Sự phối hợp của các cơ quan quản lý liên quan trong công tác kiểm tra, đánh giá về môi trường tự nhiên, xã hội của các công trình chưa được tốt, do đó đã không thể kịp thời đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong khai thác vận hành, quy hoạch cũng như quản lý các công trình thủy điện.

+ Đối với các chủ dự án, công trình thủy điện:

Tuy hầu hết các công trình thủy điện đã lập ĐTM, song chất lượng chưa cao, thiếu các công trình phụ trợ, khai thác mỏ đất, đá, đường giao thông, đường dây tải điện, .. .Công tác quan trắc, giám sát, lập và gửi báo cáo kết quả chưa được thực hiện tốt.

Hầu hết các dự án chưa thực hiện cam kết trồng bù diện tích rừng bị mất theo quy định tại khoản 5 Điều 29 Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về Thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừngnhư cam kết. Bên cạnh đó, nhiều dự án cũng không có đủ quỹ đất để có thể trồng bù rừng trong khu vực dự án; không quy hoạch khu tái định canh, định cư cho người dân trong vùng, làm ảnh hưởng đến môi trường.

Trong khi đó, một số công trình chưa tuân thủ nội dung ĐTM như khảo sát, xác định về bom mìn, tồn lưu chất độc hóa học (Đa Dâng 2, Đa'Mbri, Đasiat); chưa có biện pháp đảm bảo an toàn trong thi công; không thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, vật liệu xây dựng, ...

Một số giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường công trình thủy điện

Giải pháp về quy hoạch và quản lý

- Cải thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, thiên nhiên nói chung và quản lý các công trình, dự án thủy điện nói riêng.

- Lập báo cáo ĐMC trong quá trình quy hoạch các công trình thủy điện. Các cấp có thẩm quyền cần xem xét, cân nhắc cả về mục tiêu kinh tế và môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Không nên quy hoạch ở những vùng quá nhạy cảm về môi trường.

- Yêu cầu các chủ dự án phải lập ĐTM hoặc đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi cấp giấy phép đầu tư.

- Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý các cấp, đặc biệt là kỹ năng thẩm định báo cáo ĐTM. Tăng cường phối hợp giữa các ngành chức năng liên quan thực hiện công tác kiểm tra, giám sát công trình dự án thủy điện.

- Cần nghiên cứu, đánh giá về tác động tiêu cực tiềm ẩn đến môi trường kinh tế, xã hội của các công trình thuỷ điện đang xây dựng và đã đi vào vận hành để có những điều chỉnh kịp thời; rà soát, loại bỏ những dự án thủy điện nhỏ không mang lại hiệu quả cao.

Giải pháp trong giai đoạn xây dựng dự án

- Vị trí, thiết kế xây dựng các công trình thủy điện phải được xem xét khách quan, căn cứ trên các vấn đề về kinh tế, xã hội, địa hình, thủy văn,.. .

- Các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường phải có tính khả thi, giảm thiểu thấp nhất sự tổn thương đến người dân cũng như môi trường tự nhiên. Có kế hoạch đền bù, tái định canh, định cư hợp lý, lưu ý đến truyền thống cộng đồng, phong tục của người dân trong vùng dự án; tránh bố trí công trình gần khu rừng được bảo tồn, vườn quốc gia, đất ngập nước, công trình cảnh quan phục vụ du lịch,…

Giải pháp trong xây dựng, vận hành công trình thủy điện

- Bảo vệ chất lượng nguồn nước trong hồ, đồng thời cần đưa ra biện pháp hữu hiệu tận thu lâm sản, rà phá bom mìn, di chuyển mồ mả, thu dọn chuồng trại,…

- Thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường đất, nước, không khí trong vùng dự án do chất thải, khí thải, bụi, ồn, sự thay đổi dòng chảy, xói lở đất,…

- Cần thiết lập, thực hiện kế hoạch bảo vệ và trồng rừng đầu nguồn, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức bảo tồn đa dạng sinh học trong cộng đồng.

- Việc phòng chống bồi lắng phải được đề cập trong kế hoạch quản lý vận hành hồ chứa. Thường xuyên kết hợp với các cơ quan địa phương kiểm tra tình hình sử dụng nguồn nước phía hạ lưu.

- Xây dựng phương án ứng cứu, giảm thiểu thấp nhất khả năng xảy ra sự cố môi trường; việc cắt, xả lũ của các công trình thủy điện phải được tính toán, xem xét trong quá trình thiết kế hệ thống hồ, đập, phải đảm bảo an toàn cho hồ, đập và an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân vùng hạ lưu; tạo điều kiện cho người dân nơi đây tham gia thảo luận về phương án xả nước từ hồ chứa.

- Xây dựng quy trình vận hành liên hồ và tuân thủ quy trình phòng chống lũ của các hồ thủy điện.

Ngoài các giải pháp nêu trên, cần đẩy mạnh việc thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh. Trước mắt các công trình thủy điện sẽ đóng góp vào quỹ bảo vệ và phát triển rừng 20 đồng/kWh để hỗ trợ cho các chủ rừng và hộ nhận khoán bảo vệ rừng thực hiện bảo vệ rừng nhằm giữ nước cho phát điện, chống xói mòn, bồi lắng lòng hồ, tăng tuổi thọ của hồ.

Kết luận

Với những phân tích ở trên cho thấy, hiện nay, tình hình quản lý môi trường các công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng còn gặp nhiều khó khăn. Trong thời gian tới, Sở Tài nguyên và Môi trường Lâm Đồng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý các công trình thủy điện để kịp thời tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỈnh có những quyết sách phù hợp trong công tác quy hoạch cũng như triển khai các dự án, công trình thủy điện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững cho tỉnh và cả khu vực.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.
Vĩnh Long: Tổng kết Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa
Sáng ngày 24/12/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tổng kết và trao giải Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Vĩnh Long lần thứ XIV, năm học 2024-2025 và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ X, năm 2024-2025.
Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.