Công nghiệp phụ trợ
Nếu hình dung cấu trúc toàn bộ qui trình sản xuất một sản phẩm như một quả núi thì các ngành công nghiệp phụ trợ đóng vai trò chân núi, còn công nghiệp lắp ráp đóng vai trò đỉnh núi. Chân núi là những ngành sử dụng tất cả các kỹ thuật gia công cơ bản (đúc, dập, gò, hàn, cắt gọt, khoan đột, uốn kéo, cán ép, tạo hình, dệt lưới, in ấn bao bì...) gia công các loại vật liệu từ các kim loại, tới cao su, nhựa, gốm, gỗ và các loại vật liệu tổng hơp khác, nhằm chế tạo ra các linh kiện, phụ tùng phục vụ công nghiệp lắp ráp.
Với phần chân núi ổn định, muốn sản xuất sản phẩm gì, chỉ cần thay đổi phần đỉnh (lắp ráp). Với cách hiểu này, công nghiệp phụ trợ bao trùm nhiều lĩnh vực, không chỉ riêng phục vụ sản xuất ô tô, xe máy mà vô số các loại sản phẩm cơ khí, điện, điện tử khác. Như vậy có nghĩa là không có công nghiệp phụ trợ thì công nghiệp lắp ráp sẽ không thể tồn tại.
Thực tế công nghiệp của Việt Nam hiện nay phần lớn đang là những ngành công nghiệp gia công từ dệt may, giày dép… đến lắp ráp như ôtô, xe máy, thiết bị điện và điện tử… Tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số ngành trọng điểm như ôtô là 20-30%, da giày, dệt may là trên 10%.... dẫn đến hệ quả là giá trị gia tăng thấp, năng lực cạnh tranh của DN kém… Thậm chí, với tình trạng phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng để sản xuất như hiện nay thì nguy cơ các doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất sản phẩm cuối cùng cũng có thể bỏ Việt Nam mà đi do không tìm được nguồn cung cấp linh kiện, phụ tùng tại chỗ, nhất là khi sức ép về chi phí tiền lương tăng lên. Theo ông Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Việt Nam"Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển".
"Phụ" nhưng không phụ
Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng một đất nước hiện đại, lấy nền tảng là phát triển công nghiệp. Vì thế, đòi hỏi tự nhiên là nâng cao tỉ trọng công nghiệp trong GDP. Bài toán hóc búa này cần một lời giải thỏa đáng để hy vọng 20 năm nữa Việt Nam có thể bắt kịp các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc... Hàng hóa mang các nhãn thương hiệu Việt Namsẽ có chỗ đứng trong tâm trí của người tiêu dùng toàn cầu giống như Toyota hay Samsung trong lòng người Việt bây giờ. Hay ít ra thì trong các sản phẩm của các hãng nổi tiếng thế giới sẽ có tỉ phần đóng góp của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam . Điều mà Trung Quốc và một số nước trong ASEAN đã và đang làm được.
Trong lịch sử phát triển ngành công nghiệp thế giới, để công nghiệp hóa thì phát triển công nghiệp phụ trợ là điều hiển nhiên. Vậy tại sao một điều hiển nhiên như vậy vẫn chưa được đầu tư tương xứng với tầm vóc của nó?
Nếu chịu khó tìm tòi chúng ta thấy đã có rất nhiều báo cáo của các tác giả trong và ngoài nước lên tiếng báo động về tầm vóc và năng lực của nền công nghiệp phụ trợ Việt Nam . Cách đây không lâu, trong cuộc phỏng vấn với Vietnam News, đại diện của JICA (Japan International Co-operation Agency), Murooka Naomichi, đã nêu ra những vấn đề rất cụ thể, nhưng không dễ vượt qua nếu không có một kế hoạch dài hơi. Đó là khoảng cách lớn giữa các yêu cầu kỹ thuật và chất lượng của các doanh nghiệp sản xuất Nhật Bản và khả năng đáp ứng các yêu cầu đó của các nhà cung cấp Việt nam. Thứ đến là vấn đề giá thành cao và giao hàng không đúng tiến độ.
Ông Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam mới mãn nhiệm - Mitsuo Sakaba cũng đã lên tiếng cảnh báo về khả năng cung ứng linh phụ kiện của các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 25% nhu cầu và so sánh với Thái Lan nơi con số này là 65%. Ông này cũng chỉ rõ rằng công nghiệp phụ trợ đóng vai trò quyết định trong tương lai phát triển kinh tế của các nước Đông Nam Á. Về phía các nhà quản lý Việt Nam, theo ông Nguyễn Xuân Chính - Trưởng ban Quản lý các Khu công nghiệp và Chế xuất Hà Nội, vấn đề đang nằm ở lòng tin giữa các nhà sản xuất nước ngoài và các nhà cung cấp trong nước. Phía bạn thì cho rằng ta chưa đủ trình độ về công nghệ cũng như đảm bảo chất lượng và thời gian giao hàng, còn ta thì đã không lo lắng như vậy mà chỉ lo về giá cả và vòng đời của sản phẩm, cũng như sự ổn định của các đơn hàng.
Yếu kém không là bản chất
Vậy bản chất vấn đề là gì? Liệu công nghiệp phụ trợ Việt Nam có thực sự yếu kém? Doanh nghiệp nước ngoài có muốn sử dụng linh kiện của doanh nhiệp trong nước? Liệu doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu chất lượng?
Nền công nghiệp Việt Nam nói chung và công nghiệp phụ trợ nói riêng là một ngành trẻ, với thời gian định hình và phát triển không lâu (có thể bắt đầu tính từ sau Đổi mới - khoảng 1986). Mô hình quản lý doanh nghiệp cũ, công nghệ lạc hậu, khoa học ứng dụng kém phát triển, thiếu nhân lực chuyên môn là những tiền để không dễ để có thể tạo ra một nền công nghiệp phụ trợ phát triển. Nên nói rằng, công nghiệp phụ trợ Việt Nam yếu kém là hoàn toàn dễ hiểu.
Việc các doanh nghiệp nước ngoài chưa muốn hay chưa tin tưởng sử dụng các sản phẩm nội địa cũng không thật khó hiểu. Hãy đặt mình vào vị trí một người công tác trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, bạn sẽ hiểu được nguy cơ và tác động lớn của một thay đổi dù rất nhỏ trong qui trình. Ví dụ, một cách dân dã nhất là ví việc này giống như thói quen ăn phở sáng của một người tại nhà hàng quen, ngày nào đó có một nhà hàng khác chỉ tương đương và không có gì nổi trội mọc lên chào mời thì việc thay đổi lựa chọn của người kia chưa chắc đã xảy ra. Trong việc chọn lựa nhà cung cấp nội địa cũng giống như vậy, điều làm các nhà sản xuất nước ngoài phải suy tính kỹ là chi phí cơ hội, chứ không phải chỉ một thay đổi nhỏ đó.
Các nhà sản xuất nước ngoài sẽ chỉ quan tâm đến việc sử dụng các linh kiện do công nhiệp phụ trợ Việt Nam cung cấp khi linh kiện đó đạt chuẩn và vượt qua được tất cả các yêu cầu kỹ thuật kiểm định chất lượng đơn chiếc cũng như tổng thể (đây chính là điểm yếu của các doanh nghiệp nội địa). Ngoài ra, còn phải có giá thành hợp lý và tốt hơn giá của nhà cung cấp nước ngoài. Nhà cung cấp trong nước cũng phải đảm bảo trách nhiệm xử lý và chí phí toàn bộ cho các biện pháp khắc phục lỗi sản phẩm cuối cùng nếu lỗi là do linh kiện mình cung cấp gây nên. Thông tin chất lượng minh bạch cụ thể trên từng lô sản phẩm, cùng với chứng chỉ chất lượng do cơ quan kiểm định khách quan cũng phải được cung cấp đầy đủ. Nhà máy sản xuất phải áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng một cách quy củ và đảm bảo sự tồn tại, ứng dụng của hệ thống trong quy trình sản xuất.
Đã có rất nhiều công ty Việt Nam cố gắng để sở hữu các chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng. Nhưng đáng buồn là ngay sau đó những chứng chỉ này bị bỏ quên và chỉ còn đúng trên giấy tờ và hình thức. Việc áp dụng và bảo dưỡng, duy trì qui trình không có. Một số lãnh đạo doanh nghiệp vì một lý do nào đó, có thể đã thỏa mãn với tấm bằng chất lượng đạt được, có thể không hiểu hết tầm quan trọng của hệ thống quản lý chất lượng, hoặc không có đủ tâm huyết, năng lực để theo đuổi.
Cụ thể hóa kế hoạch
Đã có nhiều chuyên gia, nhà lãnh đạo và quản lý trong và ngoài nước nêu ra các giải pháp về chính sách, tổ chức và quản lý vĩ mô, xây dựng cơ sở dữ liệu, đầu tư nguồn vốn, liên doanh liên kết, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ để phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam. Biết rồi, khổ lắm... nói mãi, nên có lẽ không cần phải nhắc lại ở đây thêm một lần nữa, mà nên chăng đi vào những vẫn đề cụ thể.
Sự phát triển công nghiệp phụ trợ, rất đa dạng và nhiều cấp bậc. Một mình các doanh nghiệp Việt Nam không thể kỳ vọng bao hàm hết. Không những cần thu hút đầu tư của các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ nước ngoài mà còn cần thu hút nhiều loại doanh nghiệp ở nhiều cấp bậc trình độ công nghệ. Nếu chỉ chú trọng các doanh nghiệp Nhật có trình độ công nghệ sản xuất cao, thì khó tạo ra cầu nối liên kết (qua hoạt động sản xuất kinh doanh) với các doanh nghiệp nội địa Việt Nam , vì khoảng cách công nghệ quá lớn. Để lấp khoảng cách trình độ công nghệ cần các doanh nghiệp nước ngoài khác có trình độ công nghệ mức trung gian.
Phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành nào?
Nếu đứng ở tầm quản lý vĩ mô với số liệu cụ thể về các tập đoàn, công ty sản xuất lớn trên lãnh thổ Việt Nam với doanh thu tương ứng của các ngành hàng cụ thể, sẽ thật dễ dàng để trả lời câu hỏi này. Sản phẩm nào phổ biến, chiến lược và có doanh thu cao là sản phẩm cần chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng nhanh hàm lượng và qui mô nội địa hóa.
Tất nhiên các nhà sản xuất Nhật Bản sẽ thích chúng ta đầu tư nhiều vào mảng linh kiện điện và điện tử, vì phần lớn các công ty của họ hoạt động trong lĩnh vực này. Các nhà sản xuất Hàn Quốc có khi lại thích chúng ta phát triển mảng linh kiện ô tô.... Tuy nhiên, cần phải chú ý đến một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, mang tính nền tảng cho các ngành khác là ngành gia công cơ khí chính xác. Đây là "gót chân Asin" của nền công nghiệp Việt Nam . Với nhãn quan một người tiêu dùng bình thường, ai trong chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra những nét thô kệch trên các sản phẩm hay bán thành phẩm “Made in Viet Nam ”.
Thời điểm phù hợp để đầu tư?
Một đại diện doanh nghiệp Nhật Bản có đầu tư tại Việt Nam đã nói rằng vấn đề không phải ở chỗ ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam yếu kém, mà là sự quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam đến lĩnh vực này như thế nào. Cái thiếu chưa phải là điều đáng lo, thậm chí đó là cơ hội. Như vậy cánh cửa phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam là rất rộng, cơ hội có nhiều, chỉ có điều "có nhiều bậc cửa" khá cao, làm sao để bước được qua mà bị vướng hoặc không vấp ngã.
Làm thế nào để thâm nhập được vào chuỗi cung cấp?
Hiện nay các công ty, tập đoàn nước ngoài có đầu tư sản xuất, lắp ráp sản phẩm cuối tại Việt Nam thường kéo theo hàng loạt các công ty cung cấp linh phụ kiện đi kèm. Các công ty Nhật Bản, trong các khu chế xuất tập trung là một ví dụ điển hình. Mối quan hệ làm ăn của họ đã tồn tại lâu dài từ bản địa. Vậy làm sao để thâm nhập vào chuỗi cung cấp này?
Có ý kiến cho rằng sao ta không quyết mua lại các nhà máy phụ trợ này vào thời điểm thích hợp. Chẳng hạn, khi nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, một loạt các công ty nước ngoài trong đó có không ít các công ty đóng tại Việt Nam phải sa thải nhân công, ngừng hẳn hoặc sản xuất cầm chừng, thì đó chẳng phải là cơ hội quá tốt hay sao?
Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thâm nhập, tiếp xúc trực tiếp để biết được nhu cầu của các công ty lớn. Chúng ta phải biết được họ cần gì và cái gì họ sẵn sàng nội địa hóa? Nếu TOYOTA đã có một liên doanh cung cấp ổn định máy điều hòa ô tô thì họ sẽ chẳng dại gì mà chuyển sang sử dụng một nhà cung cấp khác. Điều này sẽ đúng đến tận khi bài toán giảm chi phí sản xuất cho đáp án sai.
Cần sự dũng cảm và một tầm nhìn
Có người nói, tại quy mô thị trường tại Việt Nam quá nhỏ nên đầu tư vào công nghiệp phụ trợ sẽ không có hiệu quả kinh tế... Đúng là hiện tại qui mô thị trường Việt Nam nhỏ, nhưng trong bối cảnh giao thương quốc tế đã rất thông thoáng, điều kiện tiếp cận và trao đổi thông tin thuận lợi hơn nhiều, tại sao lại phải suy nghĩ bó hẹp trong thị trường nội địa.
Vấn đề cơ bản là doanh nghiệp có đủ bản lĩnh, đủ sức cạnh tranh làm ra sản phẩm chất lượng, với giá cả hấp dẫn hay không. Khi đủ sức xâm nhập thị trường quốc tế thì sẽ giữ được cho mình chỗ đứng ở thị trường nội địa trong tương lai. Vậy tương lai thế nào?... chỉ có thể nói rằng công nghệ phụ trợ tại Việt Nam chưa phát triển, điều đó có nghĩa là còn vô vàn chỗ trống để có thể lựa chọn và bắt đầu.








