Chiến thắng Điện Biên Phủ - biểu tượng của chiến tranh nhân dân
Nhân dịp này, Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã có bài viết "Chiến thắng Điện Biên Phủ biểu tượng của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh". Báo Tin Tức trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết:
Cách đây 60 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, can thiệp Mỹ. Đây là thắng lợi lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam, là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam, đặc biệt của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
* Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, cả dân tộc Việt Nam ra trận. Nhân dân ta, từ vùng tự do đến vùng địch hậu, hậu phương tới tiền tuyến, miền núi và miền xuôi, già, trẻ, gái, trai... đã “Đem toàn lực chi viện Điện Biên Phủ, làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch”.
Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá “chưa bao giờ trong suốt mấy năm kháng chiến, dân ta đã góp sức nhiều như trong Đông Xuân 1953 - 1954, chi viện cho quân đội giết giặc (...). Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân”.
Thắng lợi Điện Biên Phủ là do đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đường lối đó được thể hiện ở chủ trương chiến lược đánh địch bằng cả các đòn tiến công quân sự, cũng như đấu tranh chính trị, binh vận trên tất cả các vùng trong cả nước và ở cả chiến trường Đông Dương; bằng cả sức mạnh của các đơn vị chủ lực và sức mạnh chiến tranh du kích; với cả lực lượng cơ động và tại chỗ, buộc địch phân tán lực lượng.
Từ đó, đảng bộ các đơn vị quân đội và địa phương có chủ trương, giải pháp thích hợp tập trung lãnh đạo, tổ chức cho cán bộ, chiến sỹ, nhân dân chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên quy mô lớn chưa từng có.
Nhân dân các dân tộc trên các địa phương, ở từng buôn, làng, bản, thôn đã phối hợp cùng bộ đội chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ vùng tự do; tham gia thông tin, liên lạc, trinh sát; tiến công địch bằng binh vận, vận động sỹ quan, binh lính địch bỏ ngũ về với nhân dân và bức hàng, bức rút các đồn bốt giặc.
Hàng trăm ngàn dân công đã đi chiến trường, tham gia tải thương, tải đạn, bảo đảm giao thông vận tải... Đặc biệt, bằng giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất ngay trong khi cuộc kháng chiến đang diễn ra, Đảng và Chính phủ đã tạo nên một luồng sinh khí mới, động lực to lớn trong nhân dân đem sức người, sức của phục vụ cho chiến thắng.
Trên cơ sở xác định hướng chính là Tây Bắc, Đảng đã chủ trương dùng một bộ phận quân chủ lực phối hợp với các lực lượng địa phương, chủ động đẩy mạnh những hoạt động tiến công địch ở đồng bằng Bắc Bộ, Tây Nguyên; phối hợp cùng Bạn tiến công địch ở Thượng, Trung và Hạ Lào, củng cố vùng tự do Liên khu V; đẩy mạnh chiến tranh du kích ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Cùng với những thắng lợi của các chiến dịch giải phóng Lai Châu, Nam Tây Nguyên, phối hợp tiến công địch của quân và dân Lào-Việt ở Thượng và Hạ Lào, đánh mạnh địch ở đồng bằng Bắc Bộ, Nam Trung Bộ..., cuộc chiến đấu của nhân dân và các lực lượng vũ trang ta trong vùng địch tạm kiểm soát cũng mang lại hiệu lực to lớn.
Nhờ đó, ta tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng đất đai, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, mở rộng quy mô của cuộc tiến công chiến lược, tạo nên thế trận mới, điều kiện vô cùng thuận lợi để chi viện sức người, sức của cả dân tộc cho mặt trận và bắt lực lượng cơ động của địch bị giam chân tại các địa phương mà không thể chi viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Tại mặt trận Điện Biên Phủ, bất cứ một hoạt động nào, của một đơn vị nào đều có sự kết hợp chặt chẽ, thể hiện thế trận của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, quân và dân ta đã có sự phối hợp chặt chẽ từ Trung ương tới địa phương, hậu phương với tiền phương, địa phương với đơn vị, sức mạnh hiện hữu của quốc gia với khả năng tiềm ẩn trong dân.
Khi Đảng động viên, ra lời kêu gọi, tất cả đều sẵn sàng, tham gia. Ý chí quyết tâm của Trung ương Đảng đã củng cố ý chí quyết tâm, khơi dậy lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng, sự đoàn kết thống nhất của cả dân tộc ở hậu phương cũng như ngoài tiền tuyến, từ trong Đảng đến toàn quân, toàn dân và được thể hiện từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Đảng ủy, chỉ huy mặt trận tới tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch, động viên cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào hậu phương giữ vững quyết tâm chi viện, giành thắng lợi Điện Biên Phủ.
Chính tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần tự lực tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi ở mặt trận Điện Biên Phủ. Vì vậy, cho dù kẻ thù biết rõ về ta, chúng lại có ưu thế về không quân, pháo binh nhưng cũng đành chịu thất bại. Nhờ có hậu phương vững mạnh, có sự đóng góp to lớn của nhân dân, sự chia lửa giữa các chiến trường, sự động viên, chi viện đắc lực của cả dân tộc và bạn bè quốc tế... mà chúng ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.
* Đó là chiến thắng của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đề ra đường lối kháng chiến độc lập, đúng đắn, sáng tạo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới để quy tụ, tập hợp, nhân lên sức mạnh dân tộc.
Lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao...
Dựa trên những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo đó, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cụ thể hóa thành công vào lãnh đạo toàn diện chiến dịch Điện Biên Phủ, trong đó nổi bật nhất là phân tích đánh giá đúng tình hình, so sánh lực lượng ta, địch; đồng thời chủ động dự kiến trước những khó khăn do chiến dịch kéo dài, nhất là những khó khăn về cung cấp, tiếp tế, bảo đảm quân số, sức khỏe cho bộ đội trong điều kiện chiến đấu liên tục cũng như sinh hoạt trong hầm hào khi mùa mưa đến…; để trong lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy có biện pháp khắc phục, xây dựng thế trận và lực lượng chiến tranh nhân dân rộng khắp vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu, vừa tập trung vừa có thể phân tán khi cần, dùng mưu kế, chủ động đánh địch, buộc địch phải hành động theo ý định của ta...
Phát huy tối đa ưu thế tuyệt đối về chính trị - tinh thần của quân và dân, đồng thời trên cơ sở “đánh chắc thắng”, đã sáng tạo ra phương châm - nghệ thuật đánh giặc độc đáo “đánh chắc, tiến chắc” để kịp thời thay thế phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” và phát huy mạnh mẽ ưu thế tuyệt đối của phương châm đó, tập trung binh hỏa lực bảo đảm chắc thắng cho từng trận chiến đấu. Chủ động chọn mục tiêu, chuẩn bị và chọn thời gian nổ súng khi có đủ yếu tố chắc thắng. Sau thắng lợi từng trận, không thỏa mãn dừng lại mà luôn coi trọng chấn chỉnh tổ chức, củng cố bộ đội, rút kinh nghiệm việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, chỉ huy chiến đấu hợp đồng binh chủng quy mô lớn. Coi trọng sinh hoạt quân sự dân chủ để tìm cách đánh hay...
Thực dân Pháp không thể ngờ bằng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, bằng trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam, chúng ta đã hình thành thế trận bao quanh tập đoàn cứ điểm, đưa lực lượng áp sát các cứ điểm địch. Cùng với khẳng định chỗ mạnh của ta, chúng ta còn nghiên cứu tìm ra những điểm yếu rất cơ bản của địch mà ta có thể khai thác và lợi dụng (như tinh thần của địch giữa một vòng vây ngày càng siết chặt, ở xa căn cứ hàng mấy trăm cây số, mọi nguồn tăng viện tiếp tế đều dựa vào một phương tiện độc nhất là máy bay…).
Bên cạnh các trận đánh tiêu diệt từng cứ điểm, hệ thống chiến hào cắt ngang sân bay, ngày càng áp sát từng vị trí địch, đã trở thành mối đe dọa thường trực đối với quân địch và là con đường để ta vận dụng mọi hình thức tác chiến hết sức phong phú và sáng tạo như vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt... Các biện pháp vô hiệu hóa sân bay, không cho máy bay các loại hạ cánh; luồn sâu đánh hiểm, đánh lấn, đào dũi áp sát rồi bất ngờ xông lên tiêu diệt mục tiêu; tranh thủ thời cơ thi đua diệt từng bộ phận nhỏ quân địch, bắn tỉa săn Tây, đoạt dù triệt nguồn tiếp tế được phát động rộng khắp... đã khiến cho địch không dám thò mặt ra khỏi công sự, gây những tổn thất bất ngờ ngay trong tung thâm, làm cho chúng lâm vào cảnh không thể bảo đảm hậu cần tiếp tế trong một vòng vây mà trong không ra được, ngoài không vào được...
Đó thực sự là những đòn hiểm khoét sâu chỗ yếu của địch, dồn địch vào tình thế “địa ngục” và tạo nên sức mạnh quyết định thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
*Đó là chiến thắng của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn nhất quán phải lấy sức mình là chính, “đem sức ta mà giải phóng cho ta” nhưng bên cạnh đó phải tranh thủ sức mạnh của ngoại lực, sức mạnh của quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tăng cường đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản mà trước hết là với Liên Xô, Trung Quốc để lấy đó làm cơ sở, hạt nhân mở rộng đoàn kết với tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ khác trên thế giới.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là trong Đông Xuân 1953-1954, nhân dân các bộ tộc và quân giải phóng Pa-thét Lào đã đồng cam cộng khổ, sát cánh chiến đấu cùng với nhân dân và quân đội Việt Nam. Nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã coi cuộc chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang ta như tiền tuyến chống chủ nghĩa đế quốc của cả phe xã hội chủ nghĩa, luôn dõi theo tình hình chiến sự Điện Biên Phủ, kịch liệt lên án những âm mưu, hành động kéo dài, mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ, hết lòng cổ vũ, giúp đỡ cuộc chiến đấu của nhân dân ta.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đi đến bước quyết định, với một tinh thần quốc tế chủ nghĩa cao cả, nhân dân và Đảng Cộng sản Pháp đã ra sức đẩy mạnh cuộc đấu tranh ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, đòi thực dân Pháp, can thiệp Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nhân dân các dân tộc bị áp bức, nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới cũng theo dõi cuộc chiến đấu của nhân dân ta, nhất là cuộc chiến đấu trên mặt trận Điện Biên Phủ với một sự đồng tình sâu sắc, một lòng ủng hộ, coi thắng lợi của Điện Biên Phủ như thắng lợi của bản thân mình.
Như vậy, thắng lợi của Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi của tiến công về quân sự mà đó là thắng lợi của một cuộc tiến công toàn diện vào đế quốc và tay sai bằng sức mạnh Việt Nam, đặc biệt là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trên nền tảng kinh tế và nền văn hiến dân tộc cũng như điều kiện tự nhiên đất nước... được hình thành từ trong quá khứ và được Đảng, Hồ Chí Minh phát huy lên tầm cao mới.
Ngày nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển tuy vẫn là xu thế lớn nhưng tình hình diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường; châu Á - Thái Bình Dương tuy là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh nhưng tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo đang có dấu hiệu gia tăng, dễ xảy ra đột biến...
Trong nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn không ít hạn chế, yếu kém và xuất hiện các vấn đề phức tạp; tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng bộc lộ rõ. Các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội vẫn đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá ta một cách toàn diện và chúng đã nhận ra những thủ đoạn dùng lực lượng vũ trang can thiệp quân sự là điều hạ sách; chỉ sức mạnh kinh tế, tài chính, khoa học và công nghệ mới là thế mạnh, mồi nhử, chất xúc tác tạo ra sự đối lập về chính trị, những phân tâm ly gián trong đối phương, mới trở thành lực lượng chi phối đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại và những vấn đề tổ chức, nhân sự của một quốc gia dân tộc.
Chỉ khi những phương thức, thủ đoạn phi vũ trang này không đạt mục đích thì khi đó mới là chiến tranh, can thiệp vũ trang và điều này đã được thực tiễn chiến tranh trên thế giới những năm gần đây minh chứng. Đó cũng là chiến lược chiến tranh tổng lực của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta.
Để chủ động phòng ngừa làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, không để đất nước bị động, bất ngờ trong bất cứ tình huống nào, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, với lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Theo đó, trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phân tích một cách khách quan, khoa học bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước; từ mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới... để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, động viên, tổ chức cho toàn quân, toàn dân tham gia bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng làm nền tảng cho sự thống nhất ý chí, hành động của cả dân tộc.
Trong đó, cần chú trọng bổ sung hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, giải pháp, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa việc thực hiện các luật, pháp lệnh về quân sự, quốc phòng; chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các chính sách củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, quân đội; thể chế hóa trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang...
Mặt khác, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ cũng như xây dựng Nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của các cấp chính quyền, trách nhiệm, năng lực đề xuất, tổ chức thực hiện của các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, với lực lượng vũ trang. Hoàn thiện các chế độ, chính sách quy tụ và khơi dậy tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng ở cả trong nước và nước ngoài vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, của mọi thế hệ người Việt Nam.
Chủ động đấu tranh với các âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, có căn cứ khoa học, đủ sức thuyết phục với các quan điểm không khoa học, nhất là các quan điểm xuyên tạc, thù địch phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối của Đảng; đồng thời ngăn chặn, từng bước đẩy lùi đi đến loại bỏ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tập trung xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở vững mạnh để xây dựng Đảng, xây dựng chế độ, xây dựng lực lượng vũ trang, quân đội... Thường xuyên rút kinh nghiệm và nâng cao chất lượng xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân vững chắc.
2. Tiếp tục phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị xã hội đất nước để tạo nên cái “cốt” vật chất và tinh thần của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, coi đó là hoạt động trung tâm nhằm huy động mọi nguồn lực từ con người đến của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên để nâng cao đời sống nhân dân, tạo tiền đề quan trọng củng cố quân sự quốc phòng, cần chú trọng phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Bởi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, chú trọng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh kinh tế, sự ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân đặc biệt là ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục quốc phòng cho nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang. Đi đôi với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, ngăn ngừa văn hóa lai căng, xấu độc, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin, truyền thông là tập trung xây dựng con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tinh thần yêu nước cũng như ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, kỷ luật, kỷ cương và sống có văn hóa, nghĩa tình...
3. Coi trọng chăm lo xây dựng, củng cố vững chắc sự đoàn kết thống nhất dân tộc để làm nền tảng, động lực phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Bởi đây vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, là nhân tố bảo đảm sự sống còn của dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển và là cốt lõi của sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam . Do đó, cần nắm vững và vận dụng sáng tạo đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng theo nguyên tắc lấy lợi ích Tổ quốc, dân tộc lên trên hết, trước hết. Quan tâm đáp ứng quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Tích cực, kịp thời giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai cấp, lực lượng trong xã hội dựa trên cơ sở lợi ích dân tộc, tạo sự đồng thuận, nhất trí toàn dân tộc cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước. Xây dựng tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển vì sự trường tồn của dân tộc Việt Nam . Quan tâm giải quyết thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam ; giữa quân đội với nhân dân và giữa cán bộ với chiến sỹ. Kiên quyết chống mọi biểu hiện chia rẽ, cục bộ, địa phương. Đặc biệt, để giữ cho “trong ấm”, cần phải nắm chắc và thực hiện tốt nội dung cơ bản, vấn đề mấu chốt của xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới là xây dựng “thế trận lòng dân” để lấy đó làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Trong vị trí là một đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ quân đội phải chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận, giữ đúng phép tắc trong quan hệ với nhân dân. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế-xã hội. Giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần, góp phần xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, biên giới, hải đảo. Tích cực làm tốt vai trò lực lượng nòng cốt trong phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn...
4. Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Cùng với chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác với tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền cũng như đấu tranh, để thế giới hiểu rõ về đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta; về tinh thần yêu hòa bình, tôn trọng nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia, quyền tự quyết của các dân tộc cũng như của dân tộc Việt Nam; về thành tựu của Việt Nam trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo...
Chủ động nắm chắc tình hình, đánh giá và dự báo đúng tình hình để có chủ trương, phương hướng, giải pháp giải quyết một cách kịp thời, tích cực, từ xa, giành thắng lợi. Phối hợp và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhà nước, đối ngoại của Đảng và ngoại giao nhân dân. Tăng cường sự hiện diện của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại các cơ chế đa phương. Thực hiện tốt các thỏa thuận đã ký với các nước và các tổ chức quốc tế, khu vực.
5. Củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân vững mạnh. Theo đó, phải tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng cả trong xây dựng và bảo vệ. Xây dựng và củng cố thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, nhất là trong kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; xây dựng các khu vực phòng thủ, khu vực kinh tế - quốc phòng; bổ sung, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng và tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng để tạo thế trận, lực lượng quốc phòng - an ninh vững chắc. Tăng cường hợp tác và đấu tranh trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặc biệt coi trọng xây dựng về chính trị để thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. Chủ động làm tốt công tác tham mưu chiến lược giúp Đảng, Nhà nước ngăn chặn và xử lý kịp thời, kiên quyết, khôn khéo các tình huống phức tạp nảy sinh, không để bị động, bất ngờ. Nghiên cứu, tổ chức lực lượng hợp lý, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, lực lượng thường trực cũng như dự bị động viên; giữa các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Thường xuyên đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới của các lực lượng vũ trang. Phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện kỷ luật và xây dựng chính quy... Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh; tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Đi sâu nghiên cứu phát triển lý luận xây dựng quân đội về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị và tổng kết kinh nghiệm 70 năm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam để trên cơ sở đó, tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội ta vững mạnh trong thời kỳ mới.
Xây dựng Đảng bộ Quân đội và đội ngũ cán bộ, đảng viên quân đội thật sự trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao, chỗ dựa vững chắc cho Đảng trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, là tấm gương cho mọi người noi theo.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay hơn bao giờ hết là một sự nghiệp sâu rộng của toàn dân, do toàn dân và vì lợi ích của toàn dân. Sự nghiệp đó đòi hỏi tất yếu phải thực thi một cách toàn diện. Chỉ như vậy mới củng cố và tăng cường nền độc lập dân tộc, làm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thắng lợi.
Chú thích:
(1). Võ Nguyên Giáp, Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, Nxb QĐND, Hà Nội, 1974, tr.158 - 159.