Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 08/12/2010 17:57 (GMT+7)

Chế độ làm việc của khu vực công trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

1. Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ, kinh tế - xã hội phát triển, công nghệ thay đổi, sự phát triển thị trường lao động với nhu cầu lao động và chất lượng sức lao động của toàn xã hội tăng cao, các mối quan hệ lao động thay đổi,… nên cần thiết phải nghiên cứu chế độ việc làm trong khu vực công để tìm ra cách thức xác lập chế độ việc làm mới và xác định rõ mối quan hệ giữa chủ sử dụng sức lao động và người lao động trong khu vực công.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, sự “mở” và năng động của thị trường lao động đã thực sự tạo cơ hội việc làm cho người lao động với chất lượng cao. Vì vậy, tất cả các tổ chức, cả trong khu vực công và tư đều đứng trước những thách thức lớn trong việc thu hút, duy trì và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của tổ chức mình.

Chế độ việc làm của khu vực công ở Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên cơ sở mô hình quản lý công vụ chức nghiệp “đóng”, chủ yếu dựa trên chức nghiệp, các vị trí cấp cao hơn được “lấp đầy” hầu hết bởi các ứng viên trong hệ thống công vụ cà các tiêu chuẩn lựa chọn cho các vị trí này chủ yếu là chính trị. Sự phát triển kinh tế và các cải cách thị trường đang dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư, với làn sóng “rời nhiệm sở” của công chức hiện nay. Chế độ chức nghiệp nặng về văn bằng, chứng chỉ mà chưa chú trọng đến năng lực thực tế của công chức, dẫn đến sự không tương thích giữa đào tạo với công việc do công chức đảm nhiệm, không tạo ra sự cạnh tranh giữa các công chức, giữa công chức với những người ngoài nền công vụ. Từ thực tiễn đó, cán bộ, công chức (CBCC,CC) phục vụ trong khu vực công chủ yếu làm việc theo mệnh lệnh, chỉ dẫn của người lãnh đạo, người quản lý, còn CB,CC cấp dưới sẽ trở thành “cái máy biết nói” và cố tìm mọi cách để sao cho cấp trên hài lòng bằng mọi giá.

Cơ chế thị trường mới tạo ra sự công bằng trong lao động cho mọi thành viên trong xã hội, CBCC,CC không còn đặc quyền, đặc lợi so với những người lao động khác trong xã hội. Những lợi ích có được của CBCC,CC phải tùy thuộc vào tổng sản phẩm xã hội, do xã hội tạo ra. Do đó, CBCC,CC phải tìm mọi cách để cung ứng các dịch vụ cho người dân một cách tốt hơn. Chính điều này dẫn đến xu hướng áp dụng mô hình quản lý khu vực tư vào khu vực công. Quản lý công cũng giống như quản lý doanh nghiệp đều phải tìm đến hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội. Các cơ quan hành chính và cả nhà nước nói chung mất dần tính chất cai quản của mình đối với các hoạt động kinh tế, nhà nước còn lại là người phục vụ, người làm các dịch vụ hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế và các hoạt động khác của người dân, miễn là những hoạt động đó có ý nghĩa xã hội. Chính cơ chế này đòi hỏi phải tạo ra được sự cạnh tranh trong hành chính – đây là điều khó khăn cả trong nhận thức và thực tiễn ở nước ta.

2. Bên cạnh những khó khăn của cơ chế quản lý công vụ thì chế độ việc làm của khu vực công ở Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh hiện nay, như toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với những yêu cầu thay đổi thể chế quản lý nguồn nhân lực nhà nước.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trước hết diễn ra trong lĩnh vực kinh tế. Từ đây, thông qua các hoạt động kinh tế để tác động đến nguồn nhân lực và quản lý nguồn nhân lực. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gây ra sự di chuyển nguồn nhân lực, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực tăng cao để thích nghi với điều kiện mới. Những cấu trúc mới của các tổ chức và ngành nghề toàn cầu bắt đầu xuất hiện. Các tập đoàn đang lớn mạnh cả từ bên trong và thông qua việc mua lại, sử dụng lợi thế, quy mô để dần chuyển từ cơ cấu đa quốc gia sang cơ cấu gần như có tính toàn cầu. Sự bất ổn đòi hỏi cả nhân viên và các nhà lãnh đạo nguồn nhân lực phải có khả năng phản ứng nhanh nhạy và linh hoạt.

Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, cùng với sự phân công lao động quốc tế đang tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động chất lượng cao. Khi cơ hội tìm kiếm việc làm không còn giới hạn trong phạm vị một quốc gia hay một đơn vị lãnh thổ thì bức tranh so sánh giữa các khu vực sử dụng lao động và nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực của khu vực công. Khi hệ thống thể chế không đủ mạnh và có chất lượng để trở thành công cụ pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ lao động và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để khuyến khích người lao động trong khu vực công thì việc ra đi tìm kiếm các cơ hội mới trong thị trường lao động là đương nhiên.

Ngoài ra, những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ sẽ tiếp tục thay đổi cách thức và địa điểm thực hiện công việc. Công nghệ phát triển dẫn đến mối quan hệ lao động trong tổ chức thay đổi, cụ thể là công nghệ tự động hóa và công nghệ thông tin đang thay đổi cả loại hình công việc sẵn có và bản chất của chúng – ít công việc tay chân hơn và nhiều giao dịch tự động hóa ảo hơn, người lao động kết nối thông qua điện thoại di động và máy tính trong các văn phòng di động ở bất kì đâu.

Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo nên sự minh bạch cho hoạt động quản lý. Vì vậy, cùng với việc áp dụng công nghệ thông tin tạo nên phong cách quản lý năng lực đỗi với người làm công tác này cũng ngày càng cao.

Sự xuất hiện các công việc mới và sự đa dạng hóa các ngành nghề lao động hiện nay đang tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn cho lực lượng lao động tương lai. Nếu trước kia, việc làm trong khu vực công được xem là có sức hấp dẫn cao nhất về tính chất ổn định và an toàn, thì ngày nay sự xuất hiện các khu vực khác với những việc làm mới hấp dẫn và có thu nhập cao đang là sự lựa chọn của lực lượng lao động tiềm năng. Đây thực sự là một thử thách lớn dẫn đến nguy cơ “khan hiếm” nguồn lực đầu vào cho các tổ chức khu vực chất lượng. Vì vậy, khi còn duy trì “sân chơi không bình đẳng” và không tạo tính cạnh tranh trong cơ hội việc làm với chế độ đãi ngộ xứng đáng, các tổ chức thuộc khu vực công ngày càng bị mất cơ hội tuyển dụng được người tài.

Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động đã làm cho sự ổn định về việc làm của khu vực công bị đe dọa, làn sóng “rời nhiệm sở” của nhiều CB,CC vừa qua đã thực sự làm cho các nhà quản lý nguồn nhân lực ở cả tầm vĩ mô và vi mô phải tư duy lại về các biện pháp duy trì và phát huy nguồn nhân lực chất lượng. Đã đến lúc các tổ chức khu vực công phải được nhìn nhận lại như các tổ chức sử dụng lao động với yêu cầu được ủy quyền nhiều hơn trong việc ra các quyết định quan trọng liên quan đến nguồn nhân lực của tổ chức mình, bao gồm tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, phát triển và thậm chí là sa thải để đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ - vốn không phải là bất biến.

Sự cạnh tranh về nguồn nhân lực chất lượng cao cũng đang đặt các nhà quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công đứng trước nhiều thách thức. Khi không được toàn quyền chủ động ra các quyết định có liên quan đến lĩnh vực nhân sự của mình thì các tổ chức sử dụng lao động trong khu vực công luôn “chậm chân” hơn các khu vực khác trong các hoạt động thu hút nhân tài, đặc biệt là hoạt động “tạo lập thị trường lao động riêng” cho mình. Mặt khác, nền công vụ theo chức nghiệp truyền thống cũng khiến cho các tổ chức khu vực công đang trở nên kém hấp dẫn hơn khi người lao động không hoàn toàn làm chủ con đường chức nghiệp của mình. Với một lộ trình chức nghiệp đã được vạch sẵn cùng chế độ đãi ngộ theo ngạch, bậc được quy định bởi nhà nước mà không có ngoại lệ cho người có tài đã không khuyến khích được nguồn nhân lực.

Đứng trước việc đối mặt với những thách thức trên, công cuộc cải cách hành chính ở nước ta, trong lĩnh vực công vụ, công chức đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công và quản lý CB,CC, thể hiện qua việc ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, sửa đổi năm 2000 và 2003 và ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực từ thàng 01 – 2010, tuy nhiên, vẫn còn nhiều điểm yếu trong quản lý và phát triển nguồn nhân lực khu vực công như: tiền lương chưa hợp lý, động lực làm việc thấp, đạo đức công vụ yếu, hiệu quả công việc không cao, thiếu minh bạch trong khu vực công. Bởi lẽ, cải cách nền hành chính công ở Việt Nam, đặc biệt là cải cách công vụ, công chức vẫn đang thiếu vắng một hệ thống lý luận hiện đại và kinh nghiệm thực tiễn về nhiều nội dung giúp việc thoát ra khỏi những bế tắc khi tác động của thị trường ngày càng mạnh đến vai trò của nhà nước và nền hành chính công mà những lý thuyết hành chính truyền thống không đáp ứng được.

3. Từ những thách thức lớn như đã nêu buộc nền công vụ Việt Nam phải tự thay đổi để đáp ứng và theo kịp thực tiễn. Trong cách thức quản lý công vụ ở Việt Nam, chúng ta đang mong muốn chuyển đổi từ công vụ chức nghiệp sang công vụ việc làm nhưng hướng thay đổi nên bắt đầu từ xác định một chế độ việc làm linh hoạt theo hướng hiện đại sẽ thay thế dần hoạt động quản lý nguồn nhân lực mang tính chất cứng nhắc như tuyển người vào theo ngành, làm việc suốt đời, trả lương theo cách “đến hẹn lại lên”, không đánh giá được hoạt động thực thi công việc, người lao động đã vào cơ quan nhà nước rồi thì khó đưa họ ra khỏi cơ quan. Do vậy, chế độ việc làm trong khu vực công nên chú ý bắt đầu từ khâu quan tâm đến nguồn nhân lực “tiềm năng” để đưa người vào làm việc trong khu vực công. Trước làn sóng “rời nhiệm sở” hiện nay và thị trường lao động phát triển thì các tổ chức khu vực công cần có các biện pháp để tạo lập thị trường lao động riêng.

Hiện nay, ở khu vực công một số nước có các chế độ làm việc như bầu cử, biên chế suốt đời, tuyển dụng, hợp đồng. Những chế độ việc làm này đều có ưu, nhược điểm nhất định, nhưng trước những thách thức của bối cảnh hiện nay thì nên chú trọng đến hoạt động tuyển dụng đảm bảo tính cạnh tranh. Hoạt động tuyển dụng trên nguyên tắc đảm nhận những vị trí công việc trong bộ máy nhà nước đòi hỏi phải chọn được người phù hợp nhất thông qua cạnh tranh. Mặt khác, do việc làm trong hệ thống công vụ mang tính suốt đời, đòi hỏi người lao động phải có học vấn, được đào tạo; tính chất thứ bậc của vị trí công việc; tính thường xuyên nên các tiêu chí tuyển dụng cần phải phù hợp với từng nhóm việc làm. Một hệ thống tuyển dụng, bổ nhiệm dựa trên tài năng, công bằng sẽ khuyến khích tính chuyên nghiệp của khu vực công. Nguyên tắc khách quan ngày càng trở nên quan trọng để Việt Nam có thể cạnh tranh và phát triển trong môi trường toàn cầu hóa.

Tăng cường cơ chế kí kết hợp đồng lao động do nhu cầu thực hiện công việc, có cơ chế đánh giá người lao động minh bạch, linh hoạt hơn để tăng hiệu quả công việc, trách nhiệm trong thực hiện công việc và đảm bảo tính cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường, đây là hình thức phù hợp nhất và có ý nghĩa to lớn trong việc duy trì tương quan lao động và bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể. Khi sử dụng cơ chế kí kết hợp đồng lao động trong khu vực công, cần thiết phải xác định rõ mối quan hệ chủ sử dụng lao động và người lao động theo đúng bản chất của quan hệ lao động.

Với nhận thức đúng đắn về chế độ việc làm của các tổ chức khu vực công sẽ là điều kiện để áp dụng chế độ việc làm linh hoạt và tăng cường cơ chế hợp đồng. Hi vọng rằng những đổi mới trong chế độ việc làm sẽ giúp các tổ chức khu vực công đạt được các mục tiêu tạo ra động lực cho đội ngũ lao động; tạo quyền tự chủ cho người sử dụng lao động; tìm đúng người cho đúng công việc đang cần nhân lực; nâng cao tính chịu trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với hiệu quả hoạt động của tổ chức; tạo môi trường thuận lợi cho người lao động phát huy khả năng và tìm kiếm việc làm phù hợp với năng lực của mình.

Xem Thêm

Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Thanh Hoá: Phản biện Đề án phát triển Viện Nông nghiệp tỉnh
Sáng ngày 06/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo phản biện “Đề án Phát triển Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, giai đoạn 2026 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Đề án) với sự tham dự của hội đồng phản biện, các chuyên gia của Liên hiệp hội và đại diện ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Viện Nông nghiệp Thanh Hóa.

Tin mới

Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.
Hỗ trợ thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững
Dự án Hỗ trợ phục hồi rừng tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình do Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt là Chủ dự án với mục tiêu hỗ trợ việc thực hiện các giải pháp bảo tồn và phục hồi rừng tự nhiên gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Vĩnh Long: Tập huấn nâng cao nhận thức về ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh
Sáng ngày 23/05, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) phối hợp với Chi cục Môi trường và Kiểm lâm – Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh, Đảng ủy, UBND xã Thuận Thới, Hợp tác Xã Thuận Thới tổ chức Hội nghị “Tập huấn tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác, ứng phó khí hậu gắn với kinh tế xanh”.
Liên hiệp hội Hà Tĩnh: 30 năm một chặng đường phát triển
Kể từ khi mới thành lập đến nay, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội tỉnh Hà Tĩnh không ngừng được bổ sung, kiện toàn và phát triển. Bên cạnh việc xây dựng và phát triển tổ chức, Liên hiệp hội đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ, khắc phục thách thức, nắm bắt cơ hội để tạo động lực vươn lên.
Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.