Cần xây dựng một nền khoa học kinh tế biển hiện đại
Khoa học vẫn còn khoảng cách với tiềm năng
Theo Viện KH&CN Việt Nam , hoạt động điều tra nghiên cứu biển ở nước ta được bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ trước. Qua hơn 70 năm, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1954 và nhất là từ năm 1975 tới nay, sau khi đất nước thống nhất, KH&CN biển nước ta đã có bước tiến nhất định và góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay nước ta đã tạo được những cơ sở đầu tiên cho một ngành KH&CN biển Việt Nam, với một đội ngũ cán bộ có trình độ, một số cơ quan khoa học biển chuyên ngành, những phương tiện, trang bị kỹ thuật cần thiết (tuy còn thiếu thốn) và đã có những hoạt động điều tra nghiên cứu trên quy mô quốc gia, bước đầu có vị trí trong khu vực. Đã có được những hiểu biết tổng quát và những số liệu cơ bản về tài nguyên và những đặc trưng về điều kiện tự nhiên chủ yếu của biển nước ta. Tuy chưa thật đầy đủ, song đã đáp ứng được một phần yêu cầu hoạt động của các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng biển, quản lý biển, đóng góp có hiệu quả cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn vừa qua. Chúng ta đã đạt được nhiều kết quả ứng dụng công nghệ truyền thống trong sản xuất, dịch vụ kỹ thuật biển, góp phần tích cực vào việc mở rộng khai thác nguồn lợi biển, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm biển ở nước ta.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của một ngành KH&CN biển hiện đại, đáp ứng được yêu cầu các nhiệm vụ phát triển ở trình độ cao của kinh tế, an ninh quốc phòng biển nước ta trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, KH&CN biển nước ta còn nhiều mặt hạn chế.
Thực tế cho thấy, hoạt động điều tra nghiên cứu biển trong giai đoạn vừa qua chủ yếu còn ở mức độ điều tra thống kê, mô tả các hiện tượng, chưa có nhiều nghiên cứu chuyên đề ở trình độ cao về cơ chế hoạt động, quan hệ tương tác, quy luật diễn biến của các quá trình biển trong vùng biển nước ta. Do đó, chưa tạo được khả năng chủ động dự báo biến động tài nguyên, môi trường biển, thiên tai biển và ứng dụng công nghệ biển hiện đại. Chưa có nhiều nghiên cứu về các vấn đề khoa học xã hội biển, như kinh tế, luật pháp, dân cư xã hội ven biển, đáp ứng yêu cầu của quản lý biển. Cơ sở hạ tầng khoa học biển còn chưa chuyên nghiệp, chưa hoàn chỉnh và chưa hiện đại. Tư liệu điều tra, khảo sát cũng như phương tiện, trang bị kỹ thuật lớn còn phân tán, chưa được thống nhất quản lý trong cả nước để nâng cao hiệu quả sử dụng. Đội ngũ cán bộ còn chưa đồng bộ, trình độ tuy không thua kém so với các nước trong khu vực, song còn có khoảng cách so với các nước phát triển. Cơ sở đào tạo trong nước còn nhỏ bé, chưa hình thành được nhiều tập thể khoa học mạnh về từng lĩnh vực, chưa xây dựng được lực lượng chủ lực để có thể hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược lớn về biển của nhà nước trong từng giai đoạn.
Hiệu quả kinh tế: vẫn chỉ là nhặt nhạnh, nhỏ lẻ
Với hơn 3.260 km bờ biển, 112 cửa sông, lạch, 4.000 đảo lớn, nhỏ và hơn 1 triệu km2 vùng biển, bên cạnh các giá trị cảnh quan, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Tuy nhiên các đảo của Việt Nam được khai thác một cách tự phát, “mạnh ai nấy làm”, thiếu quy hoạch và thiếu cơ sở khoa học.
Hoạt động khai thác thủy sản ở vùng ven bờ và thềm lục địa chiếm khoảng 80% lượng thủy sản khai thác toàn quốc. Nuôi trồng thủy sản nước lợ tiến hành ở vùng ven bờ biển đóng góp gần 90% tổng sản lượng thủy sản toàn quốc, đáp ứng gần 40% lượng chất đạm (protein) của cả nước. Chưa kể với một diện tích rừng ngập mặn lớn, nếu biết cách khai thác, giá trị của rừng ngập mặn của Việt Nam lên khoảng hơn 100.000 USD/ ha/ năm. Giá trị cụ thể của lượng vật chất khai thác từ biển mà con người vẫn cân đong đo đếm như hiện nay là rất nhỏ so với giá trị thực tế của biển. Biết khai thác, nguồn thu nhập có thể lên đến hàng nghìn lần so với những gì mà người dân ven biển thu được hiện nay. Ở những quốc gia khác, trung bình 1 km2 biển, giá trị khai thác lên đến 100.000 USD, trong khi đó con số này ở Việt Nam chỉ là 20.000 USD. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, Trung Quốc có hơn 4 triệu km2 diện tích mặt biển, với hơn 1.400 cảng lớn nhỏ cùng đội tàu thương mại khoảng 210.000 chiếc. Các hoạt động liên quan tới biển cả, trong đó có đánh bắt cá, vận tải biển, khai thác dầu khí, đóng tàu và du lịch biển, đã mang lại cho nước ngày khoản thu lên đến 270 tỷ USD, tương đương 10% GDP của Trung Quốc. Theo Ủy ban Hải dương quốc gia Trung Quốc thì việc phát triển nhanh chóng kinh tế vùng biển phía đông đất nước đã giúp tăng nhanh thu nhập từ biển cả trong thời gian qua và cả những năm sắp tới. Theo ông He Quangshun, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Hải dương quốc gia Trung Quốc thì doanh thu từ kinh tế biển của Trung Quốc hiện nằm ở mức cao hơn mức trung bình của thế giới
Sự giàu có và đa dạng các nguồn tài nguyên biển là tiền đề phát triển đa ngành, nhưng thực tế biển Việt Nam chủ yếu được quản lý theo ngành. Tình trạng này xảy ra, khi các cơ quan quản lý chưa quy hoạch chi tiết tổng thể, không có tầm nhìn chiến lược đã vội vã cấp phép những dự án đầu tư phát triển kinh tế biển. Đây chính là mâu thuẫn lợi ích giữa các ngành đang khai thác tài nguyên từ biển. Không thể phát triển kinh tế biển theo kiểu sở này thì phát động du lịch sinh thái biển, sở kia lại cấp phép và “cổ xúy” cho việc đóng tàu biển gây ô nhiễm vùng biển ven bờ. Ông Nguyễn Chu Hồi - Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục Biển và Hải đảo cho rằng, Việt Nam không thể phát triển kinh tế biển nếu vẫn còn tư duy theo kiểu sợ biển. Nếu các cơ quan quản lý không sớm áp dụng cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý biển sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế biển bền vững.
Hướng đi nào?
Để xây dựng và phát triển một nền kinh tế biển hiện đại cần thiết phải thực hiện theo Nghị quyết số 03/NQ-TW ngày 6 - 5 - 1993 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 22 - 9 - 1997 của Bộ Chính trị thiết nghĩ, cần tăng cường công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển, dự báo về biển để làm cơ sở khoa học tin cậy, định hướng phát triển của các ngành kinh tế biển. Kết quả nghiên cứu KH&CN chính là cơ sở dữ liệu để xây dựng chính sách toàn diện bảo vệ chủ quyền, đảm bảo an ninh quốc phòng và quy hoạch bền vững kinh tế biển. Về đầu tư, nên đồng bộ nhưng tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm và có hiệu quả. Về môi trường, cần đẩy mạnh công tác quy hoạch môi trường cho các ngành kinh tế biển và thúc đẩy xã hội hóa về bảo vệ môi trường biển. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ trong quản lý, nghiên cứu KH&CN, đồng thời tăng cường tuyên truyền, quảng bá, phổ biến kiến thức về KH&CN và môi trường biển trong toàn xã hội, nhằm nâng cao khả năng khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường và quản lý biển của Việt Nam.
Để cụ thể hơn, ông Chu Hồi cũng đưa ra ý kiến, phát triển một nền kinh tế biển hiệu quả bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế. Cần có một phương thức quản lý biển tổng hợp đảm bảo được an ninh sinh thái và an sinh xã hội ở vùng biển đảo và ven biển. Quy hoạch phát triển kinh tế biển là cụ thể, nhưng cần đặt trong tư duy tổng thể phát triển hệ thống đảo và từng vùng biển. Đối với các cụm đảo nhỏ hoang sơ, nên phát triển kinh tế đảo với bảo tồn thiên nhiên du lịch sinh thái biển đảo. Đối với các cụm đảo lớn, nên xây dựng các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện có bán kính ảnh hưởng rộng ra vùng xung quanh và là những cực tiếp nối quan trọng trong bình đồ tổ chức không gian biển.








