Ca trù – Một loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam
Ca trù là một thể loại âm nhạc cổ truyền vẫn còn lạ lẫm đối với nhiều người, nhưng những tiếng lóc cóc đệm cho khúc hát trữ tình đã có từ bao thế kỷ nay vẫn tồn tại và giữ được nét nguyên sơ. Mới đây, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những văn bản cổ ghi chép về ca trù. Bên cạnh đó, nhiều tư liệu quý về ca trù thu thập được trong thời gian qua đã chứng minh đây chính là một thể loại hát đầu tiên của người Việt Nam . Thậm chí đó là thể loại hát có tính chuyên nghiệp duy nhất; có thời gian lịch sử tồn tại dài nhất; được các triều đại phong kiến trước đây công nhận; có trường lớp đào tạo diễn viên chuẩn nhất trong lịch sử; và rất may mắn, thể loại ca trù vẫn còn giữ được nét cổ xưa nhất, không bị thời gian và sự pha tạp của các thể loại ca nhạc sau này làm mất gốc. Với những đặc tính ưu việt đó, các nhà nghiên cứu và đại diện của UNESCO tại cuộc hội thảo về ca trù tổ chức tại Hà Nội vừa qua đã có những nhận xét khả quan rằng, ca trù sẽ trở thành kiệt tác về nghệ thuật cổ và có thể trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại...
Theo các tư liệu nghiên cứu thì lúc đầu, ca trù còn được gọi là hát ả đào hay hát nói (theo nghĩa đen có nghĩa là bài hát của người nữ ca) kết hợp với loại hình giải trí kiểu Geisha (vũ nữ Nhật). Những cô ca sĩ trẻ, duyên dáng tiếp đón khách trong một không khí thoải mái, đôi khi phục vụ cả rượu và thức ăn nhẹ. Khách có thể ghé qua một quán hát ả đào để cùng bạn bè ăn mừng một vụ làm ăn thành công hoặc sự chào đời của đứa con thừa tự...
Ca trù phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XV khi nó trở nên thịnh hành nơi cung điện của vua chúa phong kiến Việt Nam và đây cũng là hình thức giải trí rất được ưa chuộng của các bậc tao nhân mặc khách. Thời gian sau, ca trù được biểu diễn ở đình làng, quán trọ và tư dinh các nhà quyền quý. Những buổi biểu diễn này phần lớn dành cho nam giới. Khi vào nghe ca trù, khách sẽ mua những thẻ ghi điểm.
Trong tiếng Hán cổ, trù có nghĩa là thẻ, ca nghĩa là bài hát. Do đó ca trù có nghĩa là bài hát có thẻ ghi điểm. Những thẻ điểm này được khách tặng cho các ca sỹ nhằm tán thưởng phần trình diễn của họ. Sau buổi biểu diễn, mỗi người hát sẽ nhận tiền công theo tỷ lệ số thẻ được khách thưởng cho.
Ở Hà Nội vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX, ca trù đã trở thành một hình thức giải trí phổ biến của tầng lớp trí thức, trung lưu. Lời lẽ (ca từ) của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa. Nổi tiếng nhất là bài Hồng hồng tuyết tuyết được nhiều người lớn tuổi biết và thuộc lời vì sự phổ biến của nó...
Nhược điểm của ca trù chính là nó chỉ có một bộ phận công chúng hâm mộ, ít phổ cập, số lượng người hâm mộ ít... Ca trù đã từng được các nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng... rất hâm mộ và thường lui tới các nhà trò để thưởng thức.
Ca trù đòi hỏi có ít nhất 3 người tham gia biểu diễn. Người ca sỹ luôn là nữ và chơi phách, một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre được gõ bằng 2 que gỗ. Một nhạc công đệm đàn đáy cho người hát. Đó là một loại đàn cổ dài với 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn. Ngoài ra, còn có một người chơi trống hoặc trống chầu. Sự tán thưởng mà người đánh trống dành cho người hát hoặc bài hát được biểu lộ qua cách anh ta đánh trống như thế nào. Nếu yêu thích bài hát, anh ta có thể đánh vào thành trống nhiều lần. Nếu không hài lòng với người hát, anh ta đánh hai nhịp trống. Ca trù cần có sự tham gia từ phía khán giả. Những người theo quan điểm chiết trung của câu lạc bộ này (bao gồm cả người nước ngoài) phát biểu rằng: Để cộng đồng quốc tế hiểu được chiều sâu của nền văn hóa truyền thống Việt Nam cũng như nền kinh tế hiện đại ở đây là một điều rất cần thiết. Đánh giá cao âm nhạc ca trù là một cách để thực hiện điều này. Hy vọng rằng, với những gì các nhà nghiên cứu vừa sưu tập được về thể loại âm nhạc cổ đặc sắc này trong thời gian qua, ca trù sẽ được UNESCO xếp vào hàng ngũ các di sản văn hoá phi vật thể của Việt Nam cũng như toàn nhân loại trong thời gian tới.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 09/2006