Biện pháp kỹ thuật góp phần nâng cao tỷ lệ sống khi ương cá
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷlệsốngcủa cábột như: Cábột kém chất lượng; vận chuyển và thả cábột không đúng theo yêu cầu kỹthuật; cácon bị tiêu diệt bởi các loài địch hại ( cádữ, nòng nọc ...) hoặc do thiếu nguồn thức ăn tự nhiên cho cá…
Trong các nguyên nhân trên, chất lượng cábột là yếu tố đầu vào quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của đàn cágiống trong quá trình ương. Tuy nhiên, việc thiếu nguồn thức ăn tự nhiên cũng là một nguyên nhân có ảnh hưởng rất lớn đến tỷlệsốngcủa cá. Khinói về vai trò của thức ăn tự nhiên, tiến sĩ Phạm Minh Thành và tiến sĩ Nguyễn Văn Kiểm- khoa Thủy sản, trường đại học Cần Thơ- đã có chung lời nhận xét: " Cábột sau khitiêu hết noãn hoàng, thức ăn duy nhất được cáưa thích là động vật phiêu sinh. Sự thiếu hụt thức ăn tự nhiên là nguyên nhân chính làm cho cácó tỷlệsốngsót thấp ở cả môi trường tự nhiên và nhân tạo" (**).
Để khắc phục việc thiếu nguồn thức ăn tự nhiên trong ao ươngnuôi cágiống, người nuôi có thể dễ dàng thực hiện gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao ươngtrước khithả cá.
Thức ăn tự nhiên bao gồm tảo và các loài động vật có kích thước rất nhỏ bé (còn gọi là động vật phiêu sinh hay động vật phù du) sốngtrong môi trường nước. Một trong những loài động vật phù du là nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng và thích hợp cho cábột là Trứng nước (hay còn gọi là Moina).
Trứng nước là thức ăn quan trọng cho cábột vì trong cơ thể của trứng nước có chứa một số loại acid amin và các loại men tiêu hóa (còn gọi là Enzyme) như: Proteinases, Peptidases, Amylases. Các loại men tiêu hóa này có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho hoạt động tiêu hóa của cábột. Một số loại acid amin có trong cơ thể của trứng nước là những acid amin rất cần cho sự sinh trưởng của cábột nhưng cơ thể cákhông thể tự tổng hợp được. Trứng nước còn được cho là thức ăn thích hợp cho cábột vì chúng có kích thước cơ thể phù hợp với cở miệng của hầu hết các loài cábột nên cábột dễ dàng bắt mồi sau khisử dụng hết noãn hoàng tích trữ ở bên trong cơ thể.
Theo kết quả khảo sát thực tế về hiện trạng kỹthuậtươngcátra giống (*), có 23,8% số hộ ươngcátra không gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao trước khithả cábột mà chỉ sử dụng trứng nước vớt ở tự nhiên để làm thức ăn cho cá.
Trứng nước vớt ngoài tự nhiên có thể có chứa nhiều mầm bệnh và các loài địch hại cho cánhư: Bọ gạo, bắp cày ... nên nếu vô tình đưa chúng cùng với trứng nước vào ao thì chúng sẽ gây bệnh và sát hại rất nhiều cábột và cáh ươngvà đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷlệsốngcủa cá.
Trong thực tế, cũng có những hộ ươngcátra mua trứng nước đã chết và trữ lạnh để sử dụng dần trong quá trình ươngcá. Nếu sử dụng trứng nước chết để làm thức ăn cho cáthì thành phầndinh dưỡng của trứng nước có thể bị suy giảm, đồng thời trứng nước chết sẽ không còn là nguồn thức ăn hấp dẫn đối với cábột. Mặt khác, nếu cákhông sử dụng kịp thời thì lượng trứng nước này sẽ bị phân hủy và có thể gây ô nhiễm môi trường nước.
Do đó, chủ động gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao ươnglà một biệnphápkỹthuậtnhằm hạn chế tỷlệhao hụt, gópphầnnângcaotỷlệsốngtrong quá trình ươngcá. Kỹthuậtgây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao ươngtrước khithả cáđược thực hiện như sau:
Tát cạn ao, vét bùn, bón vôi (10-15 kg/100m2) và diệt hết cátạp, rắn, cua, ếch, nòng nọc ... trong ao. Nên phơi khô đáy ao từ 1-2 ngày (nếu ở vùng đất có phèn thì không nên phơi vì có thể làm xì phèn đáy ao). Sau đó, cấp nước vào ao với mực nước sâu khoảng 0,5 mét (phải bịt lưới ở đầu ống cấp nước để ngăn các loài địch hại vào ao). Để trứng nước phát triển nhanh trong ao ương, các hộ ươngcó thể pha nước cấp với nước ở 1 ao đang ươngnuôi cákhác với tỷlệkhoảng 5-10% thể tích ở lần cấp nước đầu tiên này. Ao lấy nước pha với nguồn nước cấp phải có nguồn nước không bị ô nhiễm (không quá dơ) và cáđang ươngnuôi phải không bị bệnh. Kế tiếp, sử dụng bột đậu nành và bột cávới liều lượng mỗi loại: 300 gam/100 m2 pha vào nước tạt đều ao. Sau 3-5 ngày, dùng ly thủy tinh lấy nước ở vài điểm trong ao, nếu thấy có những con vật nhỏ li ti và đem xem dưới kính hiển vi có hình dáng như hình vẽ của Moina ở trên thì trứng nước đã phát triển. Cấp nước thêm vào ao sâu đến 0,8 mét và có thể tiến hành thả cábột.
Hoặc có thể tiến hành gây giống trứng nước trước khithả cábột khoảng 3-4 ngày trong những dụng cụ chứa nước có thể tích nhỏ từ 20-100 lít nước hoặc trong những ao đất nhỏ với mực nước trong các dụng cụ gây giống này từ 0,4- 0,5 mét. Chú ý không nên sử dụng các dụng cụ bằng kim loại bị rỉ vì trứng nước sẽ không phát triển trong môi trường có chứa hóa chất hoặc kim loại. Nguồn nước gây nuôi trứng nước phải sử dụng nước ao đang ươngnuôi cávà cánuôi trong ao lấy nước này phải không bị bệnh. Vật liệu gây giống có thể theo công thức: 200 gam phân chuồng (trâu, bò) phơi khô và 1 kg đất bùn đáy ao (bùn nên băm nhỏ, phơi khô) pha loãng trên 10 lít nước ao của dụng cụ gây giống. Dụng cụ gây giống nên đặt trong bóng râm hoặc có mái che bằng vải bạt để giảm cường độ chiếu sáng và cần phải che mưa nhằm hạn chế sự thay đổi nhiệt độ đột ngột. Sau khoảng 3-4 ngày, nếu lấy mẫu nước gây giống kiểm tra dưới hính hiển vi thấy có trứng nước hoặc thấy có những con nhỏ li ti màu đỏ nổi trên mặt nước vào sáng sớm thì dùng vợt lưới mịn vớt trứng nước, rửa qua nước sạch và đưa vào ao ươngcásau khicấp nước lần đầu vào ao ươngđể gây giống nhằm giúp trứng nước phát triển kịp thời làm thức ăn cho cá.
Thông thường sau khithả cábột, các hộ ươngsử dụng bột sữa hoặc bột đậu nành, bột cá... pha với nước tạt đều ao ươngnhằm mục đích chính là để cung cấp dinh dưỡng giúp cho tảo phát triển. Trứng nước sẽ sử dụng tảo làm thức ăn để sinh trưởng và sinh sản. Quan sát ao ương, nếu thấy trứng nước tập trung thành những quầng như đám mây, có màu đỏ, di chuyển không theo một hình dạng nhất định trên mặt nước vào sáng sớm thì có thể trứng nước phát triển với mật số nhiều, nên vớt bỏ bớt hoặc thấy nước có màu xanh đậm thì phải thay nước mỗi ngày một ít để hạn chế sự phát triển quá mức của trứng nước trong ao. Nếu trứng nước phát triển quá nhiều trong ao ươngcó thể làm cho ao bị thiếu oxy về đêm và có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cácon.
Tóm lại, trứng nước sốnglà một trong những thành phầnloài của nguồn thức ăn tự nhiên trong ao ương, có giá trị dinh dưỡng caohơn các loại thức ăn nhân tạo (như lòng đỏ trứng, bột sữa, bột đậu nành, bột cá), có tác dụng giúp cábột phát triển tốt, ít bị hao hụt do thiếu hụt dinh dưỡng trong giai đoạn từ cábột đến khoảng 15 ngày tuổi. Do đó, gây nuôi thức ăn tự nhiên là biệnphápkỹthuậtcần thiết gópphầnnângcaotỷlệsốngtrong quá trình ươngnuôi cágiống.
Chú thích: Bài viết có tham khảo các tài liệu:
(*) Luận văn tốt nghiệp cao học năm 2010 của Trang Trường Nhẫn tại trường Đại học Nha Trang.
(**) Theo tài liệu Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống của TS. Phạm Minh Thành - TS. Nguyễn Văn Kiểm (2009), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.