Bảo vệ và phát triển rừng, một trong những giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
Với vị trí như trên, mặc dù diện tích rừng ngập mặn của tỉnh không nhiều nhưng nó có vai trò rất quan trọng trong việc phòng hộ bảo vệ môi trường, phòng chống xói lở, cố định bãi bồi, đặc biệt là giữ vững sự cân bằng sinh thái vùng cửa sông ven biển.
Ngày nay, dưới tác động của biến đổi khí hậu làm cho bão, lũ, hạn hán, tình hình xâm nhập mặn... diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân mà theo đánh giá của các nhà khoa học thì Bến Tre là một trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Do vậy, việc đầu tư bảo vệ và phát triển rừng của nước ta nói chung và của tỉnh Bến Tre nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trong những năm qua, hàng năm tỉnh Bến Tre đã tổ chức trồng mới thêm hàng trăm ha rừng tập trung và hàng triệu cây phân tán, nâng diện tích rừng của tỉnh lên 3.842 ha. Thông qua chính sách giao khoán rừng, đất rừng và cho người dân được hưởng lợi từ các sản phẩm từ rừng theo Quyết định 178 của Chính phủ; các mô hình sản xuất kết hợp với quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả (nuôi tôm, sò huyết trong rừng…); đầu tư công trình phúc lợi xã hội như cầu, đường, trường học, trạm xá … đã kích thích người dân tham gia trồng rừng và quản lý bảo vệ rừng được tốt hơn, qua đó tạo công ăn việc làm, góp phần cải thiện và nâng cao thu nhập cho người dân vùng ven biển.
![]() |
Người dân tỉa thưa rừng và được hưởng lợi theo Quyết định 178/CP |
Bên cạnh những thành quả đạt như trên, công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh Bến Tre vẫn còn có một số hạn chế như:
- Diện tích rừng hàng năm có tăng nhưng không nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như mục tiêu đã đề ra;
- Ý thức về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của một bộ phận nhỏ dân cư còn kém nên còn xảy ra hiện tượng phá rừng, lấn chiếm đất rừng để nuôi tôm, khai thác lâm đặc sản (con Sâm đất);
- Năng suất, chất lượng rừng thấp do việc ứng dụng các tiến bộ khoa học trong khâu giống, cải tạo rừng…còn hạn chế;
- Tác động của ngành lâm nghiệp trong công tác xoá đói, giảm nghèo chưa cao; thu nhập từ nghề rừng còn thấp và không ổn định;
- Tăng trưởng lâm nghiệp còn chậm, đóng góp GDP của lâm nghiệp trong cơ cấu chung của toàn tỉnh đạt thấp.
* Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do:
- Một là, nhận thức về lợi ích nhiều mặt của rừng chưa thật sự đầy đủ, chưa đánh giá đúng các giá trị môi trường của rừng đem lại trong cộng đồng nên chưa có sự quan tâm đầu tư đúng mức;
- Hai là, diện tích đất từng hộ ít và manh mún ( từ 0,3 – 1 ha); chính sách đầu tư để trồng và quản lý bảo vệ rừng thấp (10 triệu đồng/ha/4 năm) và lợi nhuận từ việc kinh doanh rừng thấp; chu kỳ kinh doanh cây rừng dài (từ 5 – 10 năm mới có thu hoạch) cho nên không hấp dẫn người dân so với nuôi trồng thủy sản;
- Ba là, công tác giao đất giao rừng chưa triển khai thực hiện triệt để do đó người dân chưa thật sự an tâm đầu tư;
- Bốn là, diện tích quy hoạch để phát triển rừng, nhất là vùng phòng hộ rất xung yếu còn có những vuông tôm mà hiện tại khó có thể vận động người dân trồng rừng phủ kín được; trên đất giồng cát dọc ven biển người dân đang trồng cây màu (dưa hấu, củ sắn) hiệu quả kinh tế rất cao so với trồng rừng; đất bãi bồi ven biển người dân đang nuôi sò huyết, nuôi nghêu nên không thể trồng phát triển rừng thêm được;
- Năm là, năng lực cán bộ lâm nghiệp cấp huyện và xã thiếu so với yêu cầu; công tác khuyến lâm còn hạn chế;
- Sáu là, vai trò và trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng của chính quyền địa phương (huyện, xã) theo Quyết định 245 của Thủ tướng Chính phủ chưa được quan tâm đúng mức.
![]() |
Tập huấn kiến thức về biến đổi khí hậu cho cán bộ ngành Nông nghiệp |
Từ thực trạng và những hạn chế trong công tác trồng rừng, quản lý bảo vệ rừng của tỉnh trong thời gian qua, cần rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
- Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nâng cao nhận thức của công đồng trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Khi hiểu đầy đủ giá trị và lợi ích nhiều mặt của rừng đem lại thì họ mới quan tâm bảo vệ và phát triển rừng;
- Phải giao đất, giao rừng cho dân, bởi vì khi người dân thật sự làm chủ trên mảnh đất, mảnh rừng của mình thì họ mới an tâm đầu tư bảo vệ và phát triển rừng;
- Cần nghiên cứu xây dựng các mô hình sinh kế bền vững cho người dân vùng lâm nghiệp. Khi cuộc sống ổn định và phát triển thì mới hạn chế phá rừng;
- Vùng lâm nghiệp thường ở vùng sâu, xa; điều kiện đi lại khó khăn cho nên hạn chế cho việc phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, cần đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (giao thông, điện, nước sinh hoạt…), các công trình phúc lợi xã hội nhằm góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần nhân dân;
- Thường xuyên rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để đề xuất chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn cũng như đặc điểm riêng từng vùng.
Với thực trạng và những kết quả đạt được cũng như hạn chế trong thời gian qua, tỉnh Bến Tre định hướng phát triển lâm nghiệp trong thời gian tới như sau:
Thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 7.833 ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp. Trong đó: Rừng phòng hộ 3.803 ha, Rừng đặc dụng 2.584 ha, Rừng sản xuất 1.446 ha. Đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng cho dân, mục tiêu từ nay đến năm 2020, phải bảo vệ tốt rừng hiện có đồng thời trồng mới thêm khoảng 1.100 ha để nâng diện tích rừng ngập mặn của tỉnh lên 4.900 ha. Đảm bảo cho lâm nghiệp đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, cung cấp các dịch vụ môi trường, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân lâm nghiệp, đồng thời góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng vùng ven biển của tỉnh.
Tình trạng biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra, ngay từ bây giờ chúng ta phải có những hành động cụ thể để giảm nhẹ và thích ứng với nó. Một trong những giải pháp quan trọng là phải bảo vệ và phát triển rừng, tạo sinh kế cho người dân. Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương và của cả cộng đồng. Chúng tôi mong rằng, tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng chia sẻ, có trách nhiệm và bằng những hành động cụ thể nhằm chung tay, góp sức làm cho cuộc sống của chúng ta luôn xanh, sạch và phát triển bền vững./.
(Trích tham luận của tỉnh Bến Tre tại diễn đàn thích ứng với biến đổi khí hậu phát triển bền vững vùng ven biển 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre).