Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 17/06/2011 21:32 (GMT+7)

Bản chất của lịch sử

Không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử phương Đông người ta hay nhắc đến Tư Mã Thiên và Tam Thái sử nước Tề. Đấy là những nhà sử học không biết sợ quyền lực mà chỉ biết trọng sự thực, không biết sợ cái chết mà chỉ biết sợ mất nhân cách một nhà sử học. Vào thời ấy mà Tư Mã Thiên đã lặn lội khắp nơi trên đất Hán để tìm từng thẻ tre, tích góp lại dựng lên bộ sử để lại cho muôn đời. Thời ấy ngay cả Hán Vũ Đế rất muốn xem Tư Mã Thiên viết gì về mình và triều đại mình, nhưng không cách gì ngoài cách nhờ Đông Phương Sóc. Nhưng Đông Phương Sóc dù rất thân với Tư Mã Thiên, cũng… bất lực. Nói thế để thấy tính độc lập của nhà sử học lúc bấy giờ là thiêng liêng. Tính độc lập của nhà sử học không cho phép nhà cầm quyền can thiệp ở bất cứ mức độ nào, nhằm đảm bảo tính trung thực của lịch sử.

Nhắc người để ngẫm về mình. Cho đến nay vẫn còn không ít tranh luận về thời cận đại và ngay cả hiện đại, một phần chúng ta thiếu những nhà sử học đầy khí tiết như Tư Mã Thiên, như ba anh em nhà thái sử nước Tề. Đặc biệt ở thời hiện đại còn do cơ chế. Cơ chế Đảng lãnh đạo toàn diện theo cách hiểu máy móc không phải không gây khó khăn cho nhiều nhà sử học chúng ta trong việc tiếp cận các sự thật lịch sử. Thậm chí tính độc lập của nhà sử học gần như bị triệt tiêu. Chính từ quan điểm này chúng ta đã vô tình “cắt lát” lịch sử, gần như “quên lãng” triều đại có công lớn nhất trong lịch sử mở nước và dựng nước của Chúa Nguyễn và triều Nguyễn.

Từ năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng vào Nam bắt đầu một thời kỳ mở cõi cam go và cũng đầy dũng khí của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Đứng ở góc độ vĩ mô, chúng ta lớp hậu sinh nên cúi đầu cảm ơn chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã tạo dựng cho chúng ta và các thế hệ nối tiếp một nước Việt Nam hình chữ S kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, giương ngực ra biển đông với trên 3000 cây số bờ biển và bãi biển lý tưởng, lưng dựa vào dải Trường Sơn hùng vĩ, tạo thành một thế giữ đất và nước vững chắc cho mọi thế hệ.

Đấy là sự thật lịch sử và nếu ai chối bỏ nó thì cũng đồng nghĩa với việc bắn vào lịch sử. Dẫu “bắn vào lịch sử bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn trả lại anh bằng đại bác” – Thi hào người Daghectan đã nói như thế. Từ ngày mon men vào lịch sử không hiểu sao câu nói tưởng vu vơ dọa dẫm này luôn ám ảnh tôi khiến tôi nhiều đêm mất ngủ. Một triều đại chỉ trong vòng chưa đầy 2 thế kỷ đã cho chúng ta một đất nước hoàn chỉnh gấp đôi đất nước mà Vua Hùng và các triều đại nối tiếp xây dựng. Vậy mà một thời do duy ý chí, do tả khuynh… chúng ta đã chối bỏ, thậm chí lên án gay gắt!

Bây giờ thì trước tôi là nhà tư tưởng Pháp: Misen Morsten. Ông nhìn thẳng vào tôi và nói: “Dấu hiệu đầu tiên của sự phá vỡ đạo đức xã hội – đó là đánh mất sự thật, bởi vì sự thật mà hiện nay đang được áp dụng trong chúng ta – đó không phải là những gì có trong thực tế mà là những gì chúng ta muốn thuyết phục những người khác”.

Tất nhiên tôi hiểu thời kỳ Chúa Nguyễn và triều Nguyễn là một thời kỳ lịch sử đầy biến động, vô cùng phức tạp. Thế lực nhà Mạc vẫn còn. Những người nhân danh phò Lê không phải không gây áp lực lên xã hội lúc bấy giờ. Và Trịnh Nguyễn phân tranh suốt trên 200 năm đã làm cho sức dân cùng kiệt. Tất cả điều đó tạo tiền đề cho nhiều cuộc nổi dậy của các thế lực khác nhau trong nhân dân, trong đó có cả bọn trộm cướp và những cuộc nổi dậy của nông dân!

Trong những cuộc nổi dậy này, đáng chú ý là cuộc nổi dậy của anh em nhà Tây Sơn. Thực tế, lúc đầu đây không phải là cuộc khởi nghĩa nông dân. Bắt đầu là việc biện Nhạc đánh bạc thua thiệt, thâm quỹ công, rủ hai em chạy lên miền ngược cướp của, sau thì cướp đồn chúa Nguyễn! Dần dần nhờ chính sách an dân, anh em nhà Tây Sơn thu hút ngày càng nhiều dân chúng. Trong anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự. Ông đọc được trận chiến khi nó chưa diễn ra, và cầm chắc thắng lợi khi nó bắt đầu. Cùng với thiên tài quân sự, Nguyễn Huệ còn là một nhà lãnh đạo biết chiêu hiền đãi sĩ thật lòng, chịu nghe nhiều ý kiến trái ngược nhau mà không quy chụp một ai khác chính kiến. Nhờ vậy hiền tài về với Nguyễn Huệ ngày một đông. Một người khó tính như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, cuối cùng cũng chịu trở về với Nguyễn Huệ sau trận đại thắng quân Thanh.

Đây cũng là thời kỳ Nguyễn Ánh không còn đất dung thân, phải chạy tá túc bên Xiêm ra các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Lôn… Trong nỗi đau tận cùng của một người để mất đất đai của tiên vương, Nguyễn Ánh đã nhờ Xiêm rồi nhờ Pháp… Việc nhờ này ở mặt nào đó không phù hợp với truyền thống của dân tộc. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu lần đất nước ta rơi vào tay quân Tàu vì sự nhờ vả này. Chỉ có điều, lịch sử cho thấy chưa một lần Nguyễn Ánh nhờ quân nhà Thanh. Và điều quan trọng là nhân dân Nam Bộ trước sau vẫn tìm cách giúp đỡ, che chở Nguyễn Ánh – Chắc là họ nghĩ về cái ơn mở cõi của các chúa Nguyễn. Nhân dân miền Nam hoàn toàn không đối lập chúa Nguyễn – mà người đại diện là Nguyễn Ánh – và Nguyễn Huệ. Trong lòng họ, Nguyễn Huệ là người anh hùng đã từng đánh tan 5 vạn quân Xiêm, nhưng Nguyễn Ánh là hậu duệ của chúa Nguyễn – những bậc tiền nhân có công xây dựng nên vùng đất miền Nam.

Nhiều lần tôi tự hỏi, tại sao Nguyễn Ánh không cầu viện Tàu? Vua quan các triều đại người Việt thường rất gắn bó với Thiên triều về tư tưởng và luôn coi Thiên triều là sức mạnh cứu hộ khi đất nước bị xâm hại. Việc cầu cứu Thiên triều coi như là hiển nhiên, là tất yếu. Ngay cả Tôn Thất Thuyết khi dẫn Hàm Nghi ra Tân Sở, ra hịch Cần vương… cuối cùng cũng bỏ Hàm Nghi ở Hà Tĩnh, dẫn Trần Xuân Soạn qua Tàu cầu viện, mặc dù ông, hơn ai hết biết tháng năm năm Giáp thân Thiên triều đã ký: ’’Nước Tàu để cho nước Pháp xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam‘’

Tôi nghĩ, Nguyễn Ánh không thể không suy nghĩ để chọn lựa người giúp mình lấy lại đất đai của tiên đế. Ông không nhờ Tàu vì lịch sử chắc đã cho ông nhiều bài học thấm thía về việc nhờ vả này.

Ông chọn Xiêm, trước hết, đó là nơi đã giúp ông rất nhiều giữa thời hoạn nạn không chốn dung thân. Hai nước có sức mạnh cân bằng . Tôi không rõ những điều khoản gì giữa hai bên trong sự giúp đỡ này. Nhưng giao ước mà ông Bá Đa Lộc ký với đại diện Loui XVI là de Montmoin thì cụ thể Giao ước có 5 điều khoản:

Khoản 1: Pháp giúp Nguyễn Vương 4 tàu chiến cùng trên 1000 quân trong đó có lục quân, pháo binh, hắc binh và một số súng đạn.

Khoản 2: Nguyễn Vương phải nhường cho Pháp cửa Hội An và đảo Côn Lôn.

Một giao ước sòng phẳng.

Nhưng giao ước đã không thành vì có sự dèm pha của bá tước de Conway nên Pháp hoàng đã không thi hành và Bá Đa Lộc phải mộ non 20 người sang giúp Nguyễn Ánh: đúc súng, tập luyện quân sĩ … (như một loại chuyên gia).

Suy cho cùng không có sự giúp đỡ nào vô tư, trong sáng cả – Thời cổ cận đại cũng như thời hiện đại. Một chính trị gia nguời Anh Lord Palmeroton từng nói “Chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn, cũng như bạn bè muôn đời. Chỉ có quyền lợi là vĩnh viển và muôn đời mà thôi”. Nguyễn Ánh chắc không nhầm. Mọi sự lệ thuộc đều phải trả giá…

Nhớ lại: Thời ấy cuộc chiến đang giữa hồi gay cấn – không thể dừng lại vì thiếu sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc [1949-1950] . Cùng với sự giúp đỡ ấy, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh phải làm cuộc cách mạng dân chủ: cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức bằng cách thay hàng loạt trí thức đã từng dấn thân, từng hy sinh vì cách mạng bằng những người thuộc giai cấp công nông… Đấy là điều mà ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố tránh. Với Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục đích là ưu tiên số một và việc thành lập cho được một chính phủ gồm những hiền tài, không phân biệt thành phần, giai cấp lúc bấy giờ là bảo đảm sự tin cậy của nhân dân. Thu phục được nhân tâm là thu phục được sức mạnh truyền thống của dân tộc. Nhờ nó mà nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên, nhờ nó mà Lê Lợi và Nguyễn Trãi đánh tan quân Minh…Hồ Chí minh nhận thức sâu sắc điều đó và điều đó đã giúp Hồ Chí Minh thành công trong cách mạng tháng tám… Nhưng… trong hoàn cảnh lịch sử ấy cái phi lý đã trở thành cái có lý, chủ nghĩa cộng sản từ phương tiện trên con đường cứu nước lại trở thành mục đích…

Ở góc độ nào đấy ta có thể coi đây là sự chuyển hướng mang tính tình thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoàn toàn không thuộc bản chất tư tưởng của Người. Nhưng đây lại là sự chuyển hướng về đường lối chứ không phải sách lược vì vậy hậu họa của một thứ văn hóa lai căng phi nhân tính đã vượt khỏi tầm kiểm soát của Chủ tịch Hồ Chí Minh .Đất nước từ đây rơi vào tình trạng hỗn loạn về đạo đức, khủng hoảng về lý tưởng, anh em bất hòa ngày càng gay gắt, sức mạnh đoàn kết không còn nguyên vẹn như ngày đầu thành lập nước nữa!

Đây là một vấn đề nhạy cảm hiện nay. Nhưng đấy mới chính là những vấn đề mà nhà sử học chân chính không có quyền né tránh mà phải dũng cảm vào cuộc để những thế hệ sau đỡ tốn thời gian mò mẫm trong lớp bụi thời gian. Những nhà chính trị bao giờ cũng cần sự ổn định để xây dựng và phát triển xã hội. Nhưng nếu ai đó muốn dung quyền lực để can thiệp vào lịch sử thì họ sẽ bị chính lịch sử lên án! Trong lịch sử đã từng có tướng quốc nước Tề chém liên tiếp ba nhà sử học nhưng không bẻ cong được ngòi bút của nhà sử học…

Nhìn nhận khách quan không phải là bới móc, lên án, thóa mạ… mà để cảm thông, để thể tất với cha ông một thời… Dẫu có sai phạm, thì sai phạm ấy cũng cần được đặt trong hoàn cảnh cụ thể để thấu tỏ được tấm lòng, suy nghĩ của người xưa …

Nước Nhật sau thế chiến thứ 2, đại bại! Vậy mà trước sau nhân dân vẫn tin yêu và tôn thờ Nhật Hoàng. Thái Lan, Campuchia… rồi Bỉ, Anh, Thụy Điển, Na Uy,… nhân dân vẫn tôn thờ nhà vua, tôn thờ nữ hoàng. Tôi có hỏi tiến sĩ Mory người Nhật tại sao như vậy? Vị tiến sĩ ấy trả lời : đất nước chúng tôi là của tiên vương Nhật hoàng. Người Nhật uống nước biết nhớ nguồn. Không ai dám quên công ơn lập quốc của tiền nhân. Kẻ quên ơn lên án cha ông, kẻ ấy không xứng danh người Nhật. Nhiều chính khách, thủ tướng Nhật hàng năm hay đến ngôi đền Yashukuni để thắp hương chính vì tinh thần ấy.

Tôi nghĩ người Việt mình nên suy nghĩ về tinh thần tôn trọng tiền nhân ấy của người Nhật. Trước tiên là dạy cho con cháu: có cha rồi mới có con. Một đất nước biết tôn trọng tổ tiên là một đất nước biết giá trị của văn hóa. “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” ( Hồ Chí Minh nói về văn hóa năm 1942).

Thời phong kiến, đất nước là của vua, thần dân là bề tôi của vua. Vua Chế Mân khi được vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa liền tặng cho ta hai Châu Ô, Lý. “Đó chính là phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói ở trên. Nếu đòi hỏi nhà vua thời phong kiến nhận thức về đất nước, về dân tộc như thời hiện đại là điều phi lịch sử.

Chính sự đòi hỏi phi lịch sử ấy một thời đã dẫn chúng ta rơi vào chủ nghĩa duy ý chí, tả khuynh… Nếu mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, nói hết sự thật như cố tổng bí thư Trường Chinh đã nói ở Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thì trong cuộc hội thảo “ Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” cuối năm 2008 là phù hợp với cuộc Cách mạng đổi mới tư duy của Đảng.

Sự thật lịch sử là chúa Nguyễn bằng công việc mở cõi đã nhân đôi đất nước chúng ta.

Sự thật lịch sử là Nguyễn Ánh là người đã thống nhất non song gấm vóc của đất nước ta và đặt tên nước là Việt Nam, lập nên vương triều nhà Nguyễn. Đây là một triều đại dẫu còn nhiều bất cập, nhưng xét về đại thể triều đại ấy đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử. Trước tiên, đó là việc xác định rõ ràng cương vực lãnh thổ nước Việt Nam trên bộ cũng như trên biển. Đến thời Minh Mệnh, lần đầu tiên một bản đồ chi tiết, cụ thể từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau và các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam từ Côn Lôn, Phú Quốc đến quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa…đã được xác lập. Có thể đây là cơ sở quan trọng nhất về mặt pháp lý không ai có thể chối cãi được, đánh tráo được… chủ quyền cương giới trên bộ và trên biển của chúng ta.

Tội mà một số người đời sau qui cho Nguyễn Ánh: “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi giày mã tổ”, có độ lùi thời gian, chúng ta càng rõ đấy là bức xúc mang tính tình thế. Bản chất Nguyễn Ánh là cảnh giác… gần hai mươi “chuyên gia” giúp ông được ông phong tước, hầu, giúp xây dựng gia đình, lương bổng hậu hĩnh, nhưng không có một thực quyền nào ngoài chuyên môn của họ. Và đến khi thống nhất được giang sơn, ông cũng tìm cách đưa họ về nước họ… để giữ nguyên vẹn một quốc gia như ngày nay chúng ta thừa hưởng.

Cũng có người cho chuyến đi sang Pháp của hoàng tử Cảnh tạo cớ cho Tây Dương sau này xâm chiếm nước ta, đặt ách đô hộ gần một trăm năm. Tôi nghĩ, nếu nhìn toàn cục chủ nghĩa tư bản khi phát triển cần thị trường như thế nào… thì ta sẽ thấy cái bi kịch tất yếu của những nước phong kiến, thuần nông như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, và Việt Nam …. Trong trường hợp này, cái phi lý lại trở thành cái có lý (Giáo sư Cao Xuân Huy đã phân tích vấn đề nay rất rõ ràng trong “Tư tưởng Phương Đông”).

Điều quan trọng là hôm nay chúng ta có trách nhiệm giữ cho được cương vực lãnh thổ trên bộ và trên biển như những gì mà vua Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mệnh đã để lại trên tấm bản đồ hoàn hảo nhất cho đến nay.

Cùng với một đất nước hoàn chỉnh trên, vương triều Nguyễn cũng để lại cho hậu thế những công trình đáng được hậu thế tôn vinh hơn là phỉ bán, hạch tội. Đó là chế độ học hành, thi cử để chọn hiền tài, đến việc đào kênh, rạch, xây dựng đền thờ, lăng tẩm … những công trình mà hôm nay được Unessco công nhận là di tích vật thể và phi vật thể Cung đình Huế. Tất nhiên tấm huân chương mà còn có hai mặt huống hồ những công trình đồ sộ như vậy vào thời đại công nghiệp coi như bằng không. Nhưng… người Ai Cập vẫn tự hào về Kim Tự Tháp, người Chân Lạp vẫn tự hào về Ăngco, người Tàu tự hào về Vạn Lý Trường Thành, về lăng mộ Tần Thủy Hoàng…. Có bao nhiêu triệu người ngã xuống cho niềm tự hào này ? Tôi chưa nghe dân tộc nào phỉ báng, lên án cha ông họ như một số người trong chúng ta …hôm nay ! Tôi lại nghĩ về người Nhật và cái câu của tiến sĩ Mory: uống nước nhớ nguồn là tư tưởng nhân nghĩa, là đạo lý của người Nhật.

Tất nhiên lịch sử không thể phủ nhận đóng góp lớn lao của Nguyễn Huệ và hoàng đế Quang Trung đã tạo tiền đề cho công cuộc thống nhất của Nguyễn Ánh (có thể khẳng định rằng nếu không có Nguyễn Huệ – hoàng đế Quang Trung tạo tiền đề thì Nguyễn Ánh không dễ thống nhất được giang sơn như trong thực tế).

Tính kế thừa của lịch sử chính là chỗ nhận thức lịch sử theo quan điểm biện chứng: trung thực và khách quan. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì không còn là lịch sử nữa.

Khi mà chiến tranh đã qua trên ba mươi năm và công cuộc đổi mới đã qua hai mươi năm, một cách nhìn nhận và đánh giá lịch sử thời cận đại như nó vốn có: đó chính là bản chất của lịch sử mà các nhà sử học luôn tự nhắc nhở mình phải cảnh giác với tính chủ quan, duy ý chí của con người ở mọi thời đại.

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.