Xử lý nước rác phù hợp với điều kiện Việt Nam
Nước rác còn được hình thành trong quá trình chôn lấp vận hành bãi rác với nhiều nguồn khác nhau, như nước sinh ra do quá trình sinh hóa phân hủy các chất hữu cơ; mực nước ngầm có thể dâng lên và rỉ qua các vách của ô chôn rác; nước từ các khu vực khác chảy qua có thể thấm vào rác; nước mưa rơi xuống khu vực chôn lấp rác trước khi phủ đất và trước khi ô rác đóng lại; nước mưa rơi xuống khu vực bãi chôn lấp sau khi ô rác đầy.
Hiện trên thế giới áp dụng 2 công nghệ xử lý nước rác. Đó là c ông nghệ, kỹ thuật vật lý, cơ lý và hóa học áp dụng các quy trình điều hòa, tuyển nổi, lọc cát truyền thống, lọc màng. Bao gồm sử dụng màng vi lọc, siêu lọc để lọc nước rác, sau đó cho nước rác đã được xử lý thẩm thấu ngược. Cuối cùng xử lý lọc nano, trung hòa, keo tụ kết tủa, trao đổi iôn, ôxy hóa nâng cao bằng ôzôn, fentôn, hấp phụ các thành phần còn lại của nước rác. Mỗi loại hình công nghệ này đều có ưu, nhược điểm nhất định về các khía cạnh xây dựng, lắp đặt và vận hành nên trong quá trình nghiên cứu khả thi và dự án đầu tư cụ thể, người thiết kế phải so sánh kinh tế kỹ thuật về suất đầu tư và chi phí vận hành để lựa chọn công nghệ phù hợp.
Công nghệ, kỹ thuật sinh học áp dụng quy trình kỵ khí UASB, AF, hiếu khí anoxic, hiếu khí (AAO, AO) để xử lý rác, sau đó đưa lượng nước rác qua bể phản ứng màng sinh học chuyển động , bể phản ứng màng sinh học theo mẻ để lọc, cuối cùng nước rác được đưa vào hồ sinh học hoặc với bãi lọc ngầm trồng cây.
Từ những năm 1990-1995, vấn đề xử lý ô nhiễm nước rác đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Điển hình là những nghiên cứu của Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường, Trường Đại học Xây dựng; Viện Công nghệ Môi trường - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam… Kết quả nghiên cứu cho thấy, thành phần nước rác hữu cơ (BOD, COD) và Nitơ (T-N, NH 3 ) rất cao ở các bãi chôn lấp rác Mễ Trì, Thành Công, Thủ Lệ (Hà Nội) và bãi rác Đông Thạnh (Thành phố Hồ Chí Minh); Khu xử lý chất thải thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. C ác phương pháp này đều chưa xử lý được nước rác. Do đó, mức độ ô nhiễm của nước rác ở các đô thị Việt Nam cao và phức tạp.
Những đô thị không phân loại và thu hồi những vật liệu có thể tái chế, tái sử dụng, nhất là những chất hữu cơ có thể phân hủy sinh học mà đưa đi chôn lấp toàn bộ sẽ làm lãng phí tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường nước mặt, nước ngầm, không khí. Ngoài ra, việc vận hành bãi chôn lấp, kể cả bãi chôn lấp hợp vệ sinh nhưng thực hiện không đúng quy cách cộng với điều kiện thời tiết khí hậu của Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đối với thành phần tính chất nước rác, gây nhiều khó khăn cho việc lựa chọn công nghệ phù hợp để xử lý nước rác.
Hiện các trạm xử lý nước rác ở Việt Nam chủ yếu áp dụng theo mô hình hóa học, hóa lý, sinh học (CEEN) của Công ty Minh Đức, với quy trình khép kín. Nước rác sẽ được đưa vào hồ sinh học sau đó bơm qua hệ thống xử lý hiếu khí bằng bể aêrôten với bùn hoạt tính, kết hợp thiếu khí (anôxic) và thổi khí loại bỏ NH 3 , sau đó đưa vào hồ ổn định và xả ra ngoài.
Có thể kể đến 2 trạm điển hình là Trạm xử lý nước rác tại Gò Cát (Thành phố Hồ Chí Minh), được các chuyên gia Hà Lan phối hợp cùng Việt Nam xây dựng, với công nghệ hiện đại và tiên tiến, chi phí xây dựng khoảng hơn 1 tiệu USD vào năm 2003. Công nghệ xử lý bao gồm bể thu-trạm bơm-kết hợp loại bỏ Canxi-xử lý hiếu khí bằng bể AÊRÔTEN với bùn hoạt tính-lắng-hồ sinh học. Nhìn chung chất lượng sau xử lý đạt tương đối tốt.
Dự án Trạm xử lý nước rác Kiêu Kỵ (Gia Lâm-Hà Nội) do Xí nghiệp Môi trường Đô thị, huyện Gia Lâm làm chủ đầu tư, đang trong giai đoạn vận hành thử công trình xử lý nước rác công suất 150 m 3 /ngày. Nước rác được xử lý sau đó đưa ra hồ sinh học hai bậc, với làm thoáng nhân tạo, trong hồ có trồng bèo lục bình (bèo tây). Kết quả cho thấy hiệu quả xử lý tốt. Chỉ tiêu COD của nước đầu ra dưới 100 mg/l.
Theo đó, để có được g iải pháp xử lý nước rác phù hợp với điều kiện Việt Nam , trước hết cần khảo sát, nghiên cứu đánh giá sự hình thành nước rác trong điều kiện cụ thể từng địa phương, vùng miền. Dự đoán, tính toán cụ thể khối lượng hình thành nước rác và đặc điểm, mức độ ô nhiễm hay nồng độ các chất ô nhiễm trong nước rác. Xác định và lựa chọn nguồn tiếp nhận nước rác sau xử lý (xả trực tiếp ra nguồn tiếp nhận; xả ra mạng lưới thoát nước thải và xử lý chung với nước thải sinh hoạt đô thị). Việc lựa chọn này phải phù hợp với điều kiện của địa phương.
Nên áp dụng các loại hình công nghệ phù hợp, thân thiện với môi trường như công nghệ tuyển nổi, lắng; công nghệ lọc (lọc cát truyền thống, lọc màng theo modul, vi lọc, lọc Nano); công nghệ keo tụ, ôxy hóa nâng cao; công nghệ hiếu khí, kỵ khí hay kỵ khí - hiếu khí kết hợp, các loại hình như UASB, lọc kỵ khí, SBR, hồ sinh học các loại…; sử dụng EM và các loại hóa chất thông dụng để xử lý nước rác. Sử dụng công nghệ lọc hấp phụ, RO và các loại hình công nghệ, kỹ thuật khác...
Đối với các bãi chôn lấp nhỏ, lượng nước rác tạo thành không nhiều thì hồ sinh học có làm thoáng nhân tạo kết hợp trồng thực vật là phù hợp. Đối với các khu liên hợp và bãi chôn lấp lớn, đòi hỏi công nghệ xử lý nước rác rất phức tạp bao gồm công nghệ sinh học kỵ khí kết hợp hiếu khí cùng với xử lý hóa học, vật lý và cuối cùng là hồ sinh học.