Xây dựng mạng lưới khu bảo tồn biển, lợi ích chưa thắng gian nan
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Hải sản (RIMF), hầu hết các hoạt động kinh tế biển đều tập trung ở khu vực ven bờ và đó là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, suy thoái các hệ sinh thái biển, nguồn lợi sinh vật và đa dạng sinh học ở biển Việt Nam.
Với sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn và hệ sinh thái vùng triều, diện tích các rạn san hô bị thu hẹp đáng kể. Ví dụ tại khu vực Đông Nam Cát Bà 58% rạn san hô bị thu hẹp hoặc đang suy thoái, mặt rạn phủ đầy san hô chết. Tại vịnh Nha Trang, chỉ còn Hòn Mun có tỷ lệ san hô sống đạt 26,7%, ngoài ra ở những nơi khác số san hô sống còn rất ít hoặc không còn và thay vào đó là rong biển và các động vật đáy ăn rong biển phát triển. Tại Bạch Long Vĩ, độ phủ của rạn san hô từ 95% năm 1993 giảm xuống còn 20% năm 1999, và hiện nay tỷ lệ đó chắc chắn còn thấp hơn nhiều.
Do khai thác mạnh ở dải ven bờ, sử dụng các phương pháp khai thác mang tính hủy diệt hàng loạt, như xung điện, chất nổ, thuốc độc, lưới cỡ mắt nhỏ… và đánh bắt cá non đã gây ra sự suy giảm nguồn lợi thủy sản đáng kể. Các nghiên cứu về nguồn lợi cá biển cho thấy, xu thế giảm dần về trữ lượng, sản lượng từ năm 1984 đến nay.
TS. Nguyễn Long, Phó Viện trưởng RIMF, cảnh báo: “Nếu cứ để tình trạng tự do khai thác các vùng ven bờ như hiện nay, sẽ dẫn đến cạnh tranh khai thác, tức là mạnh tàu nào tàu nấy vơ vét và nguồn lợi sẽ cạn kiệt rất nhanh, rất bất lợi cho việc tái tạo nguồn lợi”.
Kết quả khảo sát qua phỏng vấn trực tiếp do Công ty Tư vấn Môi trường Toàn cầu (GEC) phối hợp với Quỹ Quốc tế vì Thiên nhiên (WWF) thực hiện tại 150 xã thuộc 29 tỉnh ven biển Việt Nam cho thấy, người dân ở 22/29 tỉnh cho biết số lượng loài bị biến mất ở địa phương ngày một tăng lên chủ yếu do sự khai thác bừa bãi vì mục đích sinh nhai. Cộng đồng ngư dân ở 21/29 tỉnh sử dụng phương thức đánh bắt có tính chất hủy diệt thay cho các phương thức khai thác truyền thống. Bên cạnh đó, việc xả các chất thải ngay xuống biển hoặc xảy ra bờ đợi nước triều lên cuốn đi là thói quen lâu đời của phần lớn những người sinh sống ven biển. Các cơ quan có chức năng giám sát và thi hành luật lại rất thiếu thốn về nguồn nhân lực, tài chính, thiết bị và các quyền hạn cần thiết để xử lý vi phạm, trong khi luật lệ về bảo vệ tài nguyên biển còn thiếu nhiều.
Để bảo đảm mục tiêu phát triển tài nguyên biển một cách bền vững, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về quản lý và bảo vệ tài nguyên biển, trong đó việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển (KBTB) là một giải pháp có hiệu quả được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Các lợi ích của KBTB rất đa dạng:
Thứ nhất, KBTB tạo điều kiện để bảo tồn các hệ sinh thái – sinh cảnh quan trọng đối với các loài; tăng tính đa dạng, mật độ, kích cỡ các cá thể và quần thể; thành phần loài tự nhiên, cấu trúc tuổi, tiềm năng sinh sản lớn hơn; tạo hiệu ứng tự phục hồi, tái tạo nguồn giống…
Thứ hai, tạo ra hiệu ứng tràn, tức là phát tán ấu trùng, con non, con trưởng thành ra vùng biển bên ngoài khu bảo tồn, qua đó có tác động khôi phục, duy trì và tăng năng suất nghề đánh bắt hải sản.
Thứ ba, tạo ra các lợi ích, như hiện trường nghiên cứu về biển, góp phần tăng hiểu biết về khoa học, quan trắc biển; bảo vệ, tôn tạo và phát triển các tài nguyên thiên nhiên mang tính nhân văn khác.
Do những lợi ích nói trên, việc thành lập KBTB đã được thế giới đặt ra từ những năm 1960. Tại Việt Nam, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên (rừng đặc dụng) đã được hình thành từ những năm đầu thập kỷ 60 với việc thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương vào năm 1962. Trong số rừng đặc dụng đã được thành lập có nhiều khu có hợp phần biển, như Vườn quốc gia Bái Tử Long, Cát Bà, Côn Đảo. Đến nay mới có hai KBTB chính thức hoạt động là KBTB Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) và KBTB Cù Lao Chàm (Quảng Nam ). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự kiến, đến năm 2010 toàn quốc sẽ hình thành mạng lưới gồm 15 KBTB. Một số địa phương hiện cũng có dự án riêng thành lập KBTB, như Ninh Thuận với dự án KBTB cho Vườn Quốc gia Núi Chúa, Khánh Hòa với dự án KBTB đầm Nha Phu.
Từ giữa những năm 1990, các nhà khoa học Việt Nam đã có ý tưởng thành lập các KBTB, nhưng lúc đó chưa có cơ sở pháp lý. Mãi vài năm gần đây, với sự tài trợ của một số tổ chức quốc tế nư DANIDA (Cơ quan Hỗ trợ Phát triển Quốc tế Đan Mạch) và VMF, việc xây dựng mạng lưới các KBTBT ở Việt Nam mới bắt đầu khởi động.
Thực tế cho thấy, nhận thức của địa phương là cực kỳ quan trọng và hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với việc thành lập KBTB. Phần lớn các tỉnh ven biển là những tỉnh nghèo, nên cho rằng cần ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh tế hơn là bảo tồn biển, vì những lợi ích của bảo tồn biển thường là những lợi ích lâu dài và chỉ có thể thấy được sau 3-5 năm, trong điều kiện KBTB được quản lý tốt. Trong khi đó, thành lập các KBTB lại phải lo sinh kế cho những người dân trực tiếp bị ảnh hưởng; mà việc thành lập KBTB và nguồn đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất cũng như chi phí thường xuyên là khá lớn. Một chuyên gia Hợp phần Sinh kế bền vững bên trong và xung quanh KBTB (LMPA) nhận xét: “Quan trọng nhất để thành lập KBTB là phải làm sao để lãnh đạo địa phương thấy được tầm quan trọng cũng như lợi ích lâu dài mà KBTB mang lại”.
Trở ngại thứ hai là chưa có đủ khung pháp lý cho vấn đề này. Hiện mới có Luật Thủy sản, Nghị định số 27/2005/NĐ-CP hướng dẫn một số điều trong Luật Thủy sản liên quan đến bảo tồn biển và 2 tài liệu mới được Bộ Thủy sản trước đây ban hành, là Hướng dẫn thành lập KBTB và Hướng dẫn lập kế hoạch quản lý KBTB.
“Còn phải xây dựng các tiêu chí về lựa chọn các KBTB, phân hạng các KTBT, đồng thời hoàn thành quy hoạch tổng thể mạng lưới các KBTB ở Việt Nam . Nếu có quy hoạch được phê duyệt thì các địa phương sẽ có căn cứ pháp lý vững chắc để thành lập KBTB, nhưng do chưa có nên nhiều lúc họ phải đi đường vòng” – bà Nguyễn Giang Thu, Phó giám đốc LMPA, cho biết. Như trường hợp KBTB Phú Quốc chẳng hạn, do chưa có quy hoạch tổng thể các KBTBT, UBND tỉnh Kiên Giang phải căn cứ vào dự thảo quy hoạch để gửi công văn đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chấp thuận về mặt kỹ thuật cho tỉnh thành lập KBTB Phú Quốc và giao KBTB cho tỉnh quản lý.
Cũng theo bà Thu, để bảo tồn các hệ sinh thái, sinh cảnh và nguồn lợi sinh vật biển, rất cần thành lập KBTB, nhất là ở các vùng ven biển, nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải lựa chọn hầu hết các các địa điểm ở xa đất liền là để hạn chế chồng chéo về quản lý và thủ tục hành chính với Bộ Tài nguyên và Môi trường… Trong tương lai sẽ phát triển rất nhiều KBTB ở các vùng ven biển, nhưng phải giải quyết được những vấn đề chồng chéo về chức năng giữa 2 Bộ.
Một trở ngại khác để duy trì hoạt động của các KBTB là do phần lớn chúng ở xa đất liền, giao thông không thuận tiện (trừ KBTB Vịnh Nha Trang) hoặc cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ (trừ KBTB Côn Đảo). Ví dụ, mỗi năm khách du lịch chỉ có thể đến KBTB Cù Lao Chàm trong vài tháng, nhưng đó lại là trong tháng nóng, trong khi hệ thống nhà nghỉ, vui chơi giải trí, điện, nước sinh hoạt trên đảo chưa có.
Điều đó cho thấy, để tạo nguồn thu, giúp các KBTB có thể tự nuôi sống mình, Nhà nước cần đầu tư rất lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành thủy sản, du lịch, văn hóa cần phối hợp tổ chức các hoạt động quảng bá, các hình thức du lịch điền dã, sinh thái, lặn biển… để thu hút các nguồn đầu tư cũng như du khách đến các KBTB.
Trở ngại cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là công tác tuyên truyền, giải thích đối với nhân dân địa phương, để mọi người nhận thức đúng đắn về KBTB. Trong thời gian đầu mới thành lập KBTB, cộng đồng địa phương trong và xung quanh KBTB thường chịu ảnh hưởng nhiều nhất do bị hạn chế các hoạt động khai thác. Nhưng về lâu dài, KBTB sẽ mang lại nhiều lợi ích, như giúp khôi phục nguồn lợi, mang lại các cơ hội kinh doanh và phát triển du lịch trong khu vực. Bởi vậy, song song với việc thành lập KBTB, việc tạo các cơ hội thu nhập thay thế ổn định cho cộng đồng là vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của KBTB. Cộng đồng sẽ chỉ ủng hộ và tham gia khi họ nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của KBTB và việc thành lập đó không làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của họ.
Được biết, sắp tới LMPA sẽ tập trung vào hỗ trợ sinh kế cho những người bị tác động trực tiếp bởi việc hình thành KBTB, đặc biệt là xây dựng chiến lược sinh kế bền vững với việc xây dựng các mô hình trình diễn, đánh giá tính khả thi và nhân rộng mô hình đó. Tuy nhiên, về lâu dài sự thành công của KBTB phụ thuộc rất nhiều vào sự năng động của Ban quản lý KBTB.








