Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 01/11/2010 21:08 (GMT+7)

Xây dựng mạng lưới khu bảo tồn biển, lợi ích chưa thắng gian nan

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Hải sản (RIMF), hầu hết các hoạt động kinh tế biển đều tập trung ở khu vực ven bờ và đó là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, suy thoái các hệ sinh thái biển, nguồn lợi sinh vật và đa dạng sinh học ở biển Việt Nam.

Với sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn và hệ sinh thái vùng triều, diện tích các rạn san hô bị thu hẹp đáng kể. Ví dụ tại khu vực Đông Nam Cát Bà 58% rạn san hô bị thu hẹp hoặc đang suy thoái, mặt rạn phủ đầy san hô chết. Tại vịnh Nha Trang, chỉ còn Hòn Mun có tỷ lệ san hô sống đạt 26,7%, ngoài ra ở những nơi khác số san hô sống còn rất ít hoặc không còn và thay vào đó là rong biển và các động vật đáy ăn rong biển phát triển. Tại Bạch Long Vĩ, độ phủ của rạn san hô từ 95% năm 1993 giảm xuống còn 20% năm 1999, và hiện nay tỷ lệ đó chắc chắn còn thấp hơn nhiều.

Do khai thác mạnh ở dải ven bờ, sử dụng các phương pháp khai thác mang tính hủy diệt hàng loạt, như xung điện, chất nổ, thuốc độc, lưới cỡ mắt nhỏ… và đánh bắt cá non đã gây ra sự suy giảm nguồn lợi thủy sản đáng kể. Các nghiên cứu về nguồn lợi cá biển cho thấy, xu thế giảm dần về trữ lượng, sản lượng từ năm 1984 đến nay.

TS. Nguyễn Long, Phó Viện trưởng RIMF, cảnh báo: “Nếu cứ để tình trạng tự do khai thác các vùng ven bờ như hiện nay, sẽ dẫn đến cạnh tranh khai thác, tức là mạnh tàu nào tàu nấy vơ vét và nguồn lợi sẽ cạn kiệt rất nhanh, rất bất lợi cho việc tái tạo nguồn lợi”.

Kết quả khảo sát qua phỏng vấn trực tiếp do Công ty Tư vấn Môi trường Toàn cầu (GEC) phối hợp với Quỹ Quốc tế vì Thiên nhiên (WWF) thực hiện tại 150 xã thuộc 29 tỉnh ven biển Việt Nam cho thấy, người dân ở 22/29 tỉnh cho biết số lượng loài bị biến mất ở địa phương ngày một tăng lên chủ yếu do sự khai thác bừa bãi vì mục đích sinh nhai. Cộng đồng ngư dân ở 21/29 tỉnh sử dụng phương thức đánh bắt có tính chất hủy diệt thay cho các phương thức khai thác truyền thống. Bên cạnh đó, việc xả các chất thải ngay xuống biển hoặc xảy ra bờ đợi nước triều lên cuốn đi là thói quen lâu đời của phần lớn những người sinh sống ven biển. Các cơ quan có chức năng giám sát và thi hành luật lại rất thiếu thốn về nguồn nhân lực, tài chính, thiết bị và các quyền hạn cần thiết để xử lý vi phạm, trong khi luật lệ về bảo vệ tài nguyên biển còn thiếu nhiều.

Để bảo đảm mục tiêu phát triển tài nguyên biển một cách bền vững, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về quản lý và bảo vệ tài nguyên biển, trong đó việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển (KBTB) là một giải pháp có hiệu quả được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Các lợi ích của KBTB rất đa dạng:

Thứ nhất, KBTB tạo điều kiện để bảo tồn các hệ sinh thái – sinh cảnh quan trọng đối với các loài; tăng tính đa dạng, mật độ, kích cỡ các cá thể và quần thể; thành phần loài tự nhiên, cấu trúc tuổi, tiềm năng sinh sản lớn hơn; tạo hiệu ứng tự phục hồi, tái tạo nguồn giống…

Thứ hai, tạo ra hiệu ứng tràn, tức là phát tán ấu trùng, con non, con trưởng thành ra vùng biển bên ngoài khu bảo tồn, qua đó có tác động khôi phục, duy trì và tăng năng suất nghề đánh bắt hải sản.

Thứ ba, tạo ra các lợi ích, như hiện trường nghiên cứu về biển, góp phần tăng hiểu biết về khoa học, quan trắc biển; bảo vệ, tôn tạo và phát triển các tài nguyên thiên nhiên mang tính nhân văn khác.

Do những lợi ích nói trên, việc thành lập KBTB đã được thế giới đặt ra từ những năm 1960. Tại Việt Nam, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên (rừng đặc dụng) đã được hình thành từ những năm đầu thập kỷ 60 với việc thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương vào năm 1962. Trong số rừng đặc dụng đã được thành lập có nhiều khu có hợp phần biển, như Vườn quốc gia Bái Tử Long, Cát Bà, Côn Đảo. Đến nay mới có hai KBTB chính thức hoạt động là KBTB Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa) và KBTB Cù Lao Chàm (Quảng Nam ). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự kiến, đến năm 2010 toàn quốc sẽ hình thành mạng lưới gồm 15 KBTB. Một số địa phương hiện cũng có dự án riêng thành lập KBTB, như Ninh Thuận với dự án KBTB cho Vườn Quốc gia Núi Chúa, Khánh Hòa với dự án KBTB đầm Nha Phu.

Từ giữa những năm 1990, các nhà khoa học Việt Nam đã có ý tưởng thành lập các KBTB, nhưng lúc đó chưa có cơ sở pháp lý. Mãi vài năm gần đây, với sự tài trợ của một số tổ chức quốc tế nư DANIDA (Cơ quan Hỗ trợ Phát triển Quốc tế Đan Mạch) và VMF, việc xây dựng mạng lưới các KBTBT ở Việt Nam mới bắt đầu khởi động.

Thực tế cho thấy, nhận thức của địa phương là cực kỳ quan trọng và hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với việc thành lập KBTB. Phần lớn các tỉnh ven biển là những tỉnh nghèo, nên cho rằng cần ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh tế hơn là bảo tồn biển, vì những lợi ích của bảo tồn biển thường là những lợi ích lâu dài và chỉ có thể thấy được sau 3-5 năm, trong điều kiện KBTB được quản lý tốt. Trong khi đó, thành lập các KBTB lại phải lo sinh kế cho những người dân trực tiếp bị ảnh hưởng; mà việc thành lập KBTB và nguồn đầu tư ban đầu về cơ sở vật chất cũng như chi phí thường xuyên là khá lớn. Một chuyên gia Hợp phần Sinh kế bền vững bên trong và xung quanh KBTB (LMPA) nhận xét: “Quan trọng nhất để thành lập KBTB là phải làm sao để lãnh đạo địa phương thấy được tầm quan trọng cũng như lợi ích lâu dài mà KBTB mang lại”.

Trở ngại thứ hai là chưa có đủ khung pháp lý cho vấn đề này. Hiện mới có Luật Thủy sản, Nghị định số 27/2005/NĐ-CP hướng dẫn một số điều trong Luật Thủy sản liên quan đến bảo tồn biển và 2 tài liệu mới được Bộ Thủy sản trước đây ban hành, là Hướng dẫn thành lập KBTB và Hướng dẫn lập kế hoạch quản lý KBTB.

“Còn phải xây dựng các tiêu chí về lựa chọn các KBTB, phân hạng các KTBT, đồng thời hoàn thành quy hoạch tổng thể mạng lưới các KBTB ở Việt Nam . Nếu có quy hoạch được phê duyệt thì các địa phương sẽ có căn cứ pháp lý vững chắc để thành lập KBTB, nhưng do chưa có nên nhiều lúc họ phải đi đường vòng” – bà Nguyễn Giang Thu, Phó giám đốc LMPA, cho biết. Như trường hợp KBTB Phú Quốc chẳng hạn, do chưa có quy hoạch tổng thể các KBTBT, UBND tỉnh Kiên Giang phải căn cứ vào dự thảo quy hoạch để gửi công văn đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chấp thuận về mặt kỹ thuật cho tỉnh thành lập KBTB Phú Quốc và giao KBTB cho tỉnh quản lý.

Cũng theo bà Thu, để bảo tồn các hệ sinh thái, sinh cảnh và nguồn lợi sinh vật biển, rất cần thành lập KBTB, nhất là ở các vùng ven biển, nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải lựa chọn hầu hết các các địa điểm ở xa đất liền là để hạn chế chồng chéo về quản lý và thủ tục hành chính với Bộ Tài nguyên và Môi trường… Trong tương lai sẽ phát triển rất nhiều KBTB ở các vùng ven biển, nhưng phải giải quyết được những vấn đề chồng chéo về chức năng giữa 2 Bộ.

Một trở ngại khác để duy trì hoạt động của các KBTB là do phần lớn chúng ở xa đất liền, giao thông không thuận tiện (trừ KBTB Vịnh Nha Trang) hoặc cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ (trừ KBTB Côn Đảo). Ví dụ, mỗi năm khách du lịch chỉ có thể đến KBTB Cù Lao Chàm trong vài tháng, nhưng đó lại là trong tháng nóng, trong khi hệ thống nhà nghỉ, vui chơi giải trí, điện, nước sinh hoạt trên đảo chưa có.

Điều đó cho thấy, để tạo nguồn thu, giúp các KBTB có thể tự nuôi sống mình, Nhà nước cần đầu tư rất lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành thủy sản, du lịch, văn hóa cần phối hợp tổ chức các hoạt động quảng bá, các hình thức du lịch điền dã, sinh thái, lặn biển… để thu hút các nguồn đầu tư cũng như du khách đến các KBTB.

Trở ngại cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là công tác tuyên truyền, giải thích đối với nhân dân địa phương, để mọi người nhận thức đúng đắn về KBTB. Trong thời gian đầu mới thành lập KBTB, cộng đồng địa phương trong và xung quanh KBTB thường chịu ảnh hưởng nhiều nhất do bị hạn chế các hoạt động khai thác. Nhưng về lâu dài, KBTB sẽ mang lại nhiều lợi ích, như giúp khôi phục nguồn lợi, mang lại các cơ hội kinh doanh và phát triển du lịch trong khu vực. Bởi vậy, song song với việc thành lập KBTB, việc tạo các cơ hội thu nhập thay thế ổn định cho cộng đồng là vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của KBTB. Cộng đồng sẽ chỉ ủng hộ và tham gia khi họ nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của KBTB và việc thành lập đó không làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của họ.

Được biết, sắp tới LMPA sẽ tập trung vào hỗ trợ sinh kế cho những người bị tác động trực tiếp bởi việc hình thành KBTB, đặc biệt là xây dựng chiến lược sinh kế bền vững với việc xây dựng các mô hình trình diễn, đánh giá tính khả thi và nhân rộng mô hình đó. Tuy nhiên, về lâu dài sự thành công của KBTB phụ thuộc rất nhiều vào sự năng động của Ban quản lý KBTB.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.