Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 01/08/2014 21:20 (GMT+7)

Việc bố phòng tại các cửa biển miền Trung trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm (1858-1883)

  1. Ngay sau biến cố Đà Nẵng năm 1858, bên cạnh việc phái quân sĩ tập trung tại chiến trường Đà Nẵng thì các cửa biển khác cũng tiếp tục được tăng cường phòng bị, trong đó đặc biệt quan tâm đến Thuận An. Ngay từ tháng 10 năm 1858, “vua ra lệnh cho các tỉnh nam bắc đặt pháo đài, đồn canh ở các chỗ quan yếu chia đặt súng và khí giới để thời thường phòng bị kiểm soát”(1).

Tại vùng biển Nghệ An, Thanh Hóa khí thế cũng sẵn sàng. Theo Châu bản ngày 17 tháng 9 năm Tự Đức 11 (1858), bản tấu của bộ Binh cho biết việc bố trí thuyền binh đánh thuyền Tây ở vùng biển Nghệ An, Thanh Hóa: “Bộ Binh tâu: Ngày 24 tháng này nhận được tập tâu của Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Quốc Cẩm trình rằng: Tỉnh Nam Định gửi tư văn đến cho biết tỉnh nhận được tư văn của Thanh Hóa nói là có 1 tàu của Tây từ phía Nam tới vào thả neo ở Vịnh An của Nghệ An, sau lại đến tấn Biện Sơn tỉnh Thanh bắn vào đồn lũy. Tỉnh đã điều thuyền chiến đóng ở ngoài khơi để ngăn chặn, vậy gửi tư mong được xem xét. Nay xét lời trình trong tập tâu bộ thần, xin cung nghĩ phụng chỉ: Nguyễn Quốc Cẩm của tỉnh này có trách nhiệm giữ đất, nên triển khai công việc thế nào để tùy cơ phòng giữ cốt sao dẹp xong lũ phỉ và trong vùng được yên ổn cho xứng với sự ủy nhiệm. Châu điểm” (2).

Tại Thuận An, vua sai lấy xích sắt chắn ngang cửa biển, đắp lũy đất ở Quy Lai, Thuận Hóa và đắp thêm ở Cáp Châu, Cồn Sơn, Hòa Duân. Cho đặt súng đồng “đại tướng quân” tại các bảo (trấn Hải Thành 2 súng vô địch đại tướng quân và 1 súng trấn uy đại tướng quân; ở lũy đất Cáp Châu một cỗ súng trấn uy đại tướng quân). Tới tháng 2-1859, cho đắp 3 lũy đất ở các đồn Huy Du, Lộ Châu, Hải Trình. Về sau, các đồn này tiếp tục được tu bổ, đắp thêm lũy hay cọc gỗ. Tháng 2.1859, đặt súng lớn bằng đồng và đạn chấn địa lôi ở các đồn bảo tại cửa biển Thuận An, đóng thêm quân để phòng thủ. Phái Chưởng vệ Thủy sư là Mai Viết đem 500 lính ở bảo đến đồn Thanh Phúc luyện tập đánh trận thủy bộ. Nguyễn Như Thăng, Trần Tiễn Thành được giao nhiệm vụ coi quản nhiệm vụ này (3).

Vẫn chưa yên tâm về thành, đồn và vũ khí tại Thuận An, tháng 2-1859, hội đồng cơ mật tham mưu vua Tự Đức phải thực hành bắn đạn thật, dự đoán thuyền địch vào cửa biển qua vị trí nào, cho bắn thử rồi giữ vị trí ngắm phòng khi nguy cấp thì dùng đến. “Sức cho lính pháo thủ, ngắm đo đích, ngắm súng dựng lên làm đích, diễn tập bắn đạn thật vào đấy, cốt cho phải trúng. Bấy giờ đem súng ấy chiểu theo đích ngắm súng để nguyên như cũ, đề phòng lâm thời bắn súng ấy” (4).

Tháng 4-1859, thời điểm quân Pháp – Tây Ban Nha đã tấn công thắng lợi ở Gia Định (từ tháng 2), vua Tự Đức rất lo lắng cho Thuận An, ông cho rằng tại Quảng Nam “đồn lũy hào hố mười phần vững chắc, quân của Tây dương còn dám đánh phá. Cửa biển Thuận An thế hiểm không bằng Quảng Nam, chỉ trông cậy vào súng lớn”. Bởi thế, vua sai Tôn thất Thường vốn am hiểu trận mạc đến Thuận An bàn tính phòng bị. Từ đó ông cho rằng cần tăng cường pháo đài Hòa Duân để bắn chéo lối vào nội địa. Ngoài ra còn đào ngòi, hố, cắm chông, mở nhiều lỗ châu mai, hoặc đặt cấp để tiện việc phục bắn. “Liệu mà xếp đặt, dẫu lính Tây dương nghìn vạn người kéo đến, cũng không thể nào đến gần được, mới là ổn thỏa” (5).

Sau khi quân Pháp rút khỏi Đà Nẵng, tháng 4-1860, Tự Đức triệu các đại thần bàn tính việc phòng giữ cửa biển quan trọng này, trong đó có một ý tưởng táo bạo là ngăn lấp vịnh biển để tàu thuyền Pháp không vào được. Tuy thế, sau khi cân nhắc lợi hại, cảm thấy đó là một công việc khó khăn, mất nhiều sức người sức của cũng như không dễ đạt mục đích, nói như Phan Thanh Giản, đó là việc rất khó nhọc trọng đại, phải vài ba năm mới có thể xong được. Cuối cùng, đại thần Trương Đăng Quế cùng các quan quân thứ lại xin đình việc lấp vịnh biển, chuyên việc nhân chỗ hiểm yếu mà phòng bị. Vua theo lời bàn ấy và cho tập trung vào Thuận An bởi đây là cửa ngõ của kinh sư, cần liệu cấp phòng bị (6).

Châu bản ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức 2 (1859), các đại thần Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng viện Cơ mật truyền mật dụ của vua Tự Đức cho biết từ khi có chiến sự với giặc Tây, triều đình đã nhiều lần hạ dụ cho các địa phương ven biển phải canh giữ vùng biển chống giặc Tây. “Lần này bọn giặc Tây vào gây sự ở vùng biển Đà Nẵng, Trẫm đã nhiều lần hạ dụ bảo các địa phương phải phòng ngự nghiêm cẩn. Tháng trước đây lại mới truyền dụ hai tỉnh Nam Định, Hải Dương tuân theo lời chỉ dụ trù biện: Trong đề phòng ngoài chông giữ, cốt làm sao cho làng xóm được yên tĩnh. Quân tinh sĩ dũng phàm các đồn lũy ở ven biển ngăn giặc cần thật kiên cố, không được một mảy may lơi lỏng. Bọn giặc Tây ở hạt ấy vốn gây lòng oán hờn trong dân, phải gắng sức bảo vệ địa phương, nếu không được như vậy tất sẽ trị tội nặng”. Châu điểm (7).

Nguyễn Tri Phương trong bản tấu ngày tháng 7 năm Tự Đức 20 (1867), đã cho rằng căn cứ vào tình hình cụ thể của các cửa biển để tăng cường phòng bị. Bá quan văn võ trong triều cũng cho rằng cần phải thiết lập riêng chức Đề đốc, Bang biện chuyên đốc thúc việc phòng bị ở vùng biển với tinh thần ngày ngày suy nghĩ làm sao đánh phải thắng, giữ phải vững kinh đô được ưu tiên thứ nhất, thứ đến là Quảng Nam. “Xét thấy cửa biển ở kinh đô là nơi xung yếu nhất mà Bình Thuận trở về phái Nam là vùng đất liền với Thi Nại của Bình Định và Đà Nẵng của Quảng Nam, là cửa biển sâu rộng. Lại là vùng đất quan trọng của Tả Kỳ, Kỳ Phụ. Nam Định, Hải Dương trở về phía Bắc vốn là vùng giàu có người đông, là cửa tấn cũng sâu rộng. Nếu bọn chúng có ý đồ xấu thì chúng sẽ gây hấn ở các nơi đó mà Quảng Nam, Đà Nẵng lại gần với kinh đô thì phải phòng bị. Kinh đô là nhất, thứ đến là Quảng Nam. Xét theo số biền binh hiện có, chọn lấy số lính khỏe trong số lính đó quản lĩnh để tùy thời huấn luyện và binh khí là để lính dùng khi cần thiết nên truyền cho thường xuyên diễn tập để cho lính tráng kỹ thuật tinh thông để đủ sai phái khi cần đến. Châu phê: “Nói mà không lượng không phải là tấu đối” (8).

Châu bản ngày 21 tháng 1 năm Tự Đức 27, Bản tấu của bộ bộ Công cho biết việc chuẩn bị các hạng súng pháo, khí giới rào gỗ, thiết long, mộc long và các biền binh trú giữ đồn lũy phòng vệ miền biển và cửa Thuận An “Ngày 13 lại được Châu phê: Các loại thuyền phòng vệ tuần tiễu trên sông biển đã cho về sửa chữa và đợi sai phái. Đem các hòm đá thả xuống để lấp các chỗ nông 2 bên cảng Lộ Châu. Đến mùa hè nước nông dần sẽ dùng sức đắp thêm đất xây thành đê thật kiên cố. Bộ thần bàn bạc trình bày cho các viên sứ thần phòng tiễu vùng biển là Trần Tiễn Thành đợi ngày khác cùng đến khám xét kỹ càng, xem nơi nào ở cảng ấy có thể lấp được thành đê sẽ hết lòng liệu tính. Rào gỗ ở cảng ấy xin nên dỡ về và các hòm gỗ nguyên đặt chìm cũng xin xét phái các viên thủy sư, quản vệ và bọn biền binh đem ô thuyền, thuyền sông… đến vớt lên để tránh lâu ngày bị mục. Còn các rào gỗ xin tuân theo lời phê bảo vẫn giữ lại để phòng bị”. Châu điểm (9).

2. Trong khi cuộc chiến với thực dân Pháp có nhiều bất lợi, mất 3 tỉnh rồi 6 tỉnh Nam Kỳ, tiến đến Pháp lại quấy nhiễu miền Bắc, đánh thành Hà Nội, Nam Định làm Tự Đức vô cùng lo lắng, mật tư cho các tỉnh từ Quảng Nam trở vào Nam đến Bình Thuận, Quảng Trị trở ra Bắc đến Ninh Bình biết, đều biết để bụng đề phòng (10). Tại các cửa biển Kinh sư, đặc biệt từ đầu năm 1883, công tác phòng thủ được đặc biệt đẩy mạnh khi vua tôi nhà Nguyễn nhận thấy áp lực từ thuyền chiến Pháp qua lại nơi đây. Từ tháng 2-1883, trước tình thế căng thẳng, quân Pháp kéo qua đông, vua cho phái thêm 500 biền binh đóng thêm ở các đồn Lộ Châu, Triều Sơn (11). Tháng 3, đặt thêm súng đại bác 20 cỗ, quá sơn 30 cỗ ở đồn trước đồn sau Lộ Châu (12). Nhìn chung vua tôi nhà Nguyễn đã ý thức rất rõ nguy cơ quân Pháp sẽ tấn công và chăm lo công tác phòng bị tại cửa biển Thuận An, cửa ngõ kinh đô.

Những ràng buộc của các bản hiệp ước Pháp – Việt không làm cho triều đình Tự Đức quên đi nhiệm vụ quốc gia. Theo A. Delvaux, “từ tháng 5-1880, triều đình Huế quyết định chống lại nước Pháp trong trường hợp bị tấn công, quyết định đó phần lớn do công trình của ông Tôn Thất Thuyết, là đại thần đảm nhận trọng trách bố trí phòng thủ” (13). Tuy thế, cũng trong thời gian này, quân Pháp thăm dò ráo riết của Tư Hiền, Thuận An, cho thuyền ván xuống đo cửa biển, phía triều Nguyễn không có hành động kiên quyết vì sợ gây hiềm khích. Tháng 7-1883, Pháp mang 6 tàu chiến từ Bắc Kỳ chạy đến Đà Nẵng, quan viện Cơ mật cho rằng đây là cơ hội để tiến đánh quân Pháp ở Bắc kỳ, song quân Pháp không phải ngẫu nhiên kéo đến đóng tại Đà Nẵng, nơi 12 năm trước họ đã phải rút lui sau 18 lần tiến đánh không thành. Tự Đức lúc này có lý do để lo cho Thuận An nên đã đốc suất sai Chưởng vệ là Nguyễn Văn Sỹ mang cờ lệnh, ngự bài bình sự giao cho Tôn Thất Thuyết được tùy nghi làm việc với lời nhắn nếu giảng hòa được, cũng nên tòng quyền làm kế hoãn binh.

Nỗi lo của Tự Đức đã trở thành hiện thực, ngay khi hội đủ quân tại Đà Nẵng, thực dân Pháp đã tiến đánh Thuận An. Với 8 tàu chiến, họ mang chiến thư tới Thuận An dưới sự chỉ huy của thủy sư đô đốc Courbet. Cũng như lần trước đánh Đà Nẵng, Pháp chủ động khai hỏa vào các thành, đồ tại cửa Thuận An khi quan quân tại đây chưa kịp phản ứng. Họ mất 3 ngày bắn phá liên tục mới hạ được hệ thống phòng thủ dày đặc tại đây.

Ngày 21-8-1883, quân Pháp chiếm và làm chủ Thuận An. Hôm sau, phái đoàn An Nam xuống Thuận An thương thảo nhưng Harmand cho biết ông chỉ ký hiệp ước tại Huế và chấp nhận đình chiến với các điều khoản có lợi về quân sự. Đó là phía An Nam phải vô hiệu hóa 12 pháo đài trên đường từ Thuận An tới Huế. Phá hủy các kho đạn, 2 đập chắn…; trả lại cho Pháp 2 chiếc tàu Pháp trong số các tàu đã cho vua Tự Đức theo hiệp ước 1874. Ngay khi các điều trên được chấp nhận phần nào, phái đoàn Pháp mới lên Huế, mở lại cuộc thương lượng tại nhà phái bộ vốn được đóng cửa trước đó do căng giữa đôi bên. Kết quả của cuộc thương lượng là hiệp ước Harmand ra đời trong đó đáng chú là số phận của các pháo đài ở Thuận An vốn là công sức, tâm huyết của vua quan nhà Nguyễn. Biểu tượng của lòng tự tôn, sức mạnh phòng thủ phải giao lại cho Pháp quản lý.

3. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tại các cửa biển miền Trung, phải ghi nhận những nỗ lực của vua quan nhà Nguyễn, nhất là thời kỳ đầu. Tuy nhiên những nỗ lực đã là không đủ để có thể đối phó với một kẻ thù hoàn toàn mới, với phương tiện kỹ thuật vượt trội, chiến thuật tấn công vừa mạnh về quân sự vừa khôn khéo về ngoại giao, đã dần làm khuất phục vua tôi nhà Nguyễn. Đó cũng là bài học lớn cho thế hệ sau trong việc trang bị vũ khí và chiến lược phòng bị.

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc sử quán triều nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 7, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.579

2. Châu bản ngày 27 tháng 9 năm Tự Đức 11. Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội, tờ 63, tập 96.

3, 4, 5, 6. Đại Nam thực lục, tập 7, tr.600, 601, 605, 655.

7. Châu bản ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức 12, Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc Gia I, Hà Nội, tờ 58, tập 107.

8. Châu bản ngày tháng 7 năm Tự Đức 20, Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội, tờ 110, tập 164.

9. Châu bản ngày 21 tháng 1 năm Tự Đức 27, Châu bản triều Nguyễn, triều Tự Đức, lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội, tờ 50, tập 258.

10, 11, 12. Đại Nam thực lục, tập 8, tr.518, 560, 611.

13. A. Delvaux, phái bộ…. tr.41.

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.