Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố
Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố sinh ngày 5 - 6 - 1889 tại Hà Nội, xuất thân trong một gia đình Nho học. Từ trong giáo dục gia đình, ông đã được đào tạo về Hán Nôm, có một vốn kiến thức phong phú về lịch sử và văn hoá Việt Nam và phương Đông. Ông lớn lên giữa lúc đất nước đang trải qua nhiều chuyển biến sâu sắc dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Ông học tiếng Pháp, tốt nghiệp trường Thông ngôn và sau đó làm việc tại Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (Ecole francaise d’ Extrême - Orient, EFEO), từ nhân viên phụ tá lên chức Chủ sự. Nguyễn Văn Tố thuộc thế hệ những trí thức của buổi giao thời khi nền học vấn Hán Nôm đã dần dần kết thúc và chuyển sang nền văn hoá khoa học chữ Pháp - Quốc ngữ. Ông vừa là một trí thức Nho học, vừa là một trí thức Tây học. Ở Nguyễn Văn Tố có sự kết hợp giữa hai nền văn hoá Việt Nam và Pháp, hai nền văn minh Đông và Tây trên nền tảng bền vững của cốt cách, tâm hồn Việt Nam, truyền thống văn hoá dân tộc, trước hết là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Những năm 30, 40 của thế kỷ XX, người Hà Nội không mấy người không biết đến hình ảnh một trí thức “An Nam” hàng ngày mặc áo the, đóng khăn xếp, đi bộ đến làm việc tại Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại 26 phố Lý Thường Kiệt hiện nay. Bộ quốc phục đó vẫn theo Nguyễn Văn Tố cho đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 khi cụ đã trở thành vị Bộ trưởng của Chính phủ Hồ Chí Minh. Làm việc trong một học viện mang tính hàn lâm nổi tiếng của Chính phủ Pháp, giữa những nhà bác học người Pháp và phương Tây, Nguyễn Văn Tố vẫn giữ vững nhân cách, phong thái ung dung của mình và đóng góp tích cực vào công việc nghiên cứu lịch sử, văn hoá Việt Nam.
Với lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm góp phần vào việc nâng cao dân trí, năm 1938 Nguyễn Văn Tố đã tham gia Hội truyền bá chữ Quốc ngữ do Đảng Cộng sản chủ trương thông qua những trí thức hoạt động công khai như Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp… Ông được tín nhiệm bầu làm Hội trưởng và đã có nhiều cống hiến trong các hoạt động của hội.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời cụ Nguyễn Văn Tố ra giúp nước. Cụ nhậm chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời. Trong tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Cộng hoà, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội của tỉnh Nam Định. Trong kỳ họp thứ I của Quốc hội ngày 2 - 3 - 1946, cụ Nguyễn Văn Tố được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội (tức cương vị Chủ tịch Quốc hội). Cụ Nguyễn Văn Tố là vị Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Cụ giữ cương vị này cho đến ngày 8 - 11 - 1946 khi cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Sau đó, ngày 3 - 11 - 1946 cụ được cử giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ kháng chiến.
Trong cuộc tiến công lên Việt Bắc âm mưu bao vây tiêu diệt bộ máy lãnh đạo kháng chiến, ngày 7 - 10 - 1947 một cánh quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn. Cụ Nguyễn Văn Tố bị giặc bắt và bắn chết. Về việc này, trong hồi kỳ của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết rõ: “… bọn lính dù (quân Pháp – PHL) bắt được một cụ già trông chững chạc, nói tiếng Pháp, yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, một nhân sĩ yêu nước tâm huyết và uy tín. Cụ Tố hi sinh là một tổn thất lớn cho ta” (1). Sau chiến thắng Việt Bắc, giữa năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, Quốc hội đã tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ, Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố. Hồ Chủ tịch vô cùng thương tiếc, đọc bài văn tế, trong đó có đoạn:
Than ôi,
Sương bay nghi ngút, sao Đẩu ám mờ
Mây phủ mê man, Thái Sơn ngừng biếc.
Nhớ cụ xưa,
Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu
Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết.
Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng
Phú quý, công danh, cụ nào có thiết.
… Cụ dù hi sinh, tinh thần Cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt,
Với Cụ, dân tộc mất một người chí sĩ, thế giới mất một người danh nho, Chính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc (2).
Cụ Nguyễn Văn Tố là một chí sĩ yêu nước, đã hi sinh như một liệt sĩ anh hùng.
Về phương diện học thuật, Nguyễn Văn Tố là một học giả uyên bác, nổi tiếng thông kim bác cổ. Cụ là một nhà thư tịch học nắm vững hai công cụ nghiên cứu cơ bản là chữ Hán, chữ Nôm, có vốn kiến thức sâu và rộng về lịch sử, văn hoá Việt Nam và Trung Quốc kết hợp với phương pháp nghiên cứu hiện đại của Pháp và phương Tây. Nguyễn Văn Tố lại có điều kiện làm việc hết sức thuận tiện của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp. Đây là một trung tâm nghiên cứu lớn của Pháp về văn minh vùng Viễn Đông theo cách hiểu lúc bấy giờ là vùng từ Ấn Độ về phía đông, bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Nam Á, Đông Nam Á và Đông Bắc Á, trong đó đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hai trung tâm văn hoá lớn nhất của phương Đông là Trung Quốc, Ấn Độ và hai vùng là Nhật Bản và Đông Dương. Tại đây, người Pháp đã xây dựng một thư viện lớn gồm các ấn phẩm mới và các tư liệu gốc thu thập được, trong đó có bốn kho tư liệu quan trọng và phong phú nhất là kho sách về Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam. Kho sách về Việt Nam chủ yếu là kho sách Hán Nôm, năm 1958 đã trao lại cho Uỷ ban Khoa học xã hội (từ 1979 do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý). Nguyễn Văn Tố đã miệt mài khai thác không biết mệt mỏi nguồn tư liệu thư tịch quý giá đó và công bố một loạt bài khảo cứu bằng tiếng Pháp trênTạp chí của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp(Bulletin de l’ Ecole francaise d’ Extrême - Orient, BEFEO),Tương lai xứ Bắc kỳ(Avenir du Tonkin),Tạp chí Viện nghiên cứu con người của Đông Dương(Bulletin de l’ Institut indochinois pour l’étude de l’ homme) và bằng tiếng Việt trên các tạp chíĐông thanh, Tao đàn, Thanh Nghị, Tri tân, Trí tri.Những bài khảo cứu của Nguyễn Văn Tố tựu trung có thể phân làm mấy loại như sau:
1. Khảo về văn bản cổ. Loại này công bố tập trung trong chuyên mục “Tài liệu để đính chính những bài văn cổ” trên tạp chíTri tânvà rải rác trên tạp chí khác. Mở đầu đề mục này, tác giả nói rõ mục đích của mình: “Tôi chưa thấy có quyển quốc văn hợp tuyển nào biên rõ những bài văn cổ trích ở đâu ra: ở sách in hay sách viết, sách chữ Nôm hay sách Quốc ngữ? Sự khiếm khuyết này không thể đổ lỗi cho nhà xuất bản được, vì từ trước đến giờ những quyển văn tuyển chỉ dùng làm sách giáo khoa, chứ không phải là loại sách khảo cứu. Tuy vậy, cũng cần phải biết những bài văn cổ xuất xứ ở bản in nào, và đem ra so sánh, kiểm điểm, thì may mới giữ được nguyên bản” (Tri tânsố 19, 17 - 10 - 1941). Tác giả đã sử dụng phương pháp văn bản học để rà soát lại các văn bản cổ theo hướng cố tìm ra nguyên bản hay bản cổ nhất, đáng tin cậy nhất.
2. Giới thiệu và đính chính sử liệu.Nguyễn Văn Tố rất coi trọng sử liệu và đã viết nhiều bài giới thiệu các nguồn sử liệu, đồng thời đối chiếu sự ghi chép trong sử ta với sử Trung Quốc để đính chính nhiều nghi vấn trong lịch sử. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, các bộ sử băng chữ Hán, chữ Nôm chưa được dịch ra tiếng Việt và từ năm 1918 khi chế độ thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ, trong nền giáo dục thời Pháp thuộc chỉ dùng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ nên số người am hiểu Hán Nôm càng ngày càng ít dần. Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Văn Tố đã ra sức trích dịch và giới thiệu những tư liệu quan trọng về văn hoá truyền thống. Những bài giới thiệu sử liệu này đăng rải ra trên nhiều tạp chí, cũng có lúc tập trung về một nguồn tư liệu như những bài viết vềNhững ông Nghè triều Lêtrên tạp chíTri tân.Thực ra đây là những bài giới thiệu và dịch các văn bia Tiến sĩ ở Văn Miếu. Nước ta mãi đến thời Lý, Trần mới bắt đầu công việc biên soạn lịch sử và số tác phẩm thời đó còn lại đến nay chỉ cóĐại Việt sử lược, Việt điện u linh, An Nam chí lược.Vì vậy trong nghiên cứu lịch sử, nhất là thời Lý, Trần về trước, cần khai thác những tư liệu liên quan trong các thư tịch cổ của Trung Quốc và dĩ nhiên cần đối chiếu giữa nhiều nguồn thông tin, giữa sử ta và sử phương Bắc để tìm ra sự thật lịch sử. Nguyễn Văn Tố đã viết nhiều bài dưới đề mục chung là “Sử ta so với sử Tàu” (3) để khảo về những tên hiệu cổ như Giao Chỉ, Xích Quỷ, Văn Lang, Nam Giao, Viêm Bang, Việt Thường…
3. Khảo cứu về văn hóa, văn học. Đây là hai lĩnh vực khảo cứu chủ yếu của Nguyễn Văn Tố. Ngoài một ít bài nghiên cứu chung về văn hoá phương Đông nhưĐạo giáo (Trí tri, 1934), Khổng Tử và kinh Xuân Thu (Trí tri,1935),Văn hoá phương Đông (Đông thanh, 1932), Văn hoá Đông Dương (Tri tân, 1943),tác giả dành sự quan tâm nhiều nhất cho văn hoá, văn học Việt Nam. Chúng ta bắt gặp những bài nghiên cứu về văn hoá vật thể nhưThời tiền sử ở Bắc kỳ (Trí tri, 1933), Nguồn gốc các mái cong (Trí tri, 1934), Một mô hình nhà ở bằng đất nung tìm thấy ở Nghi Vệ, Bắc Ninh (Trí tri, 1935), Ngôi chùa An Nam (BEFEO, 1941), Những vật dụng trong ngôi chùa An Nam (BEFEO, 1942);về văn hoá phi vật thể nhưMỹ thuật nước nhà (Đông thanh, 1932), Nguồn gốc chữ Quốc ngữ (Trí tri, 1933), tục ngữ ta so với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây (Tri tân, 1944)…