Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam
1. Về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Có thể nói, hiện nay trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta chưa được chú trọng và phát triển. Các quy định về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực này mới chỉ dừng lại ở quy định chung mang tính nguyên tắc.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Nghị định 113/2010/NĐ-CP ngày 03/12/2010 của Chính phủ về xác định thiệt hại đối với môi trường thì trách niệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một dạng trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm nghĩa vụ về bảo vệ môi trường. Hiện nay vấn đề trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được quy định tại một số văn bản pháp luật sau: Điều 263, Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 221 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định về trách nhiệm dân sự của chủ tàu trong trường hợp làm ô nhiễm môi trường; Điều 52 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Điều 44 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2000; Điều 17, 18, 23, 27, 33, 46, 52 và 64 Luật Khoáng sản năm 1996 được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và Luật khoáng sản năm 2010 có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản; Luật Tài nguyên nước năm 1998 tại Điều 19, 23, 30, 35, 45, 71 cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại; Luật Bảo vệ di sản văn hóa năm 2001 tại Điều 70, 71, 72 có quy định trách nhiệm dân sự của chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ di sản văn hóa gây thiệt hại; Điều 43 Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật ngày 25/7/2001.
Ngoài ra, trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực môi trường còn được quy định rải rác tại một số văn bản pháp luật khác.
1.1. Chủ thể của trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành
Một là, các cá nhân có đủ năng lực hành vi từ 18 tuổi trở lên vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Người chưa thành niên dưới 18 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà người chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu trừ trường hợp người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ, thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường, nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường, nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Hai là, tổ chức vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường do pháp luật quy định nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Trong đời sống thực tế, hầu hết các chủ thể vi phạm pháp luật môi trường thường là các doanh nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình do không có thiết bị xử lý chất thải, hoặc thiết bị xử lý đã quá cũ và lạc hậu hoặc không tuân thủ các quy định khác về bảo vệ môi trường... dẫn đến ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường hoặc sự cố môi trường.
1.2. Trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật môi trường(Điều 263 Bộ luật Dân sự năm 2005), tổ chức và cá nhân khi có hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường phải tự mình chấm dứt các hành vi đó để hiện tượng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường không tiếp tục xảy ra hoặc không trầm trọng thêm. Nếu tổ chức và cá nhân không tự mình chấm dứt hành vi vi phạm thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc các tổ chức, cá nhân đó chấm dứt hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường.
Trách nhiệm khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường(Điều 127 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005): “Người vi phạm về bảo vệ môi trường thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì còn phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Điều 268 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình chủ sở hữu phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô nhiễm môi trường, thì chủ sở hữu có trách nhiệm chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc phục hậu quả và phải bồi thường thiệt hại”.
Việc khắc phục sự cố môi trường bao gồm: Loại trừ nguyên nhân gây sự cố; cứu người; cứu tài sản; giúp đỡ ổn định đời sống nhân dân; sửa chữa công trình, phục hồi sản xuất; vệ sinh môi trường; chống dịch bệnh; điều tra, thống kê thiệt hại; theo dõi biến động của môi trường; phục hồi môi trường vùng bị ảnh hưởng. Các biện pháp này thực chất là một trong những hình thức trách nhiệm dân sự buộc người vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây sự cố môi trường, suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường gây rađược quy định tại điểm d khoản 3 Điều 93 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 như sau: “... Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường có trách nhiệm sau đây:... Bồi thường thiệt hại theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Khoản 2 Điều 13 Nghị định 113/2010/NĐ-CP ngày 03/12/2010 của Chính phủ về xác định thiệt hại đối với môi trường do mình gây ra, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan đã ứng trước kinh phí theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định này”.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 310 Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần, cụ thể:
- Trách nhiệm bồi thường về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được bằng tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút,
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại.
Các biện pháp trách nhiệm pháp lý trên được áp dụng là biện pháp chính, người vi phạm và người bị vi phạm có thể thỏa thuận với nhau biện pháp áp dụng, nếu người có hành vi vi phạm không thực hiện thì người bị vi phạm có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho mình.
Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành có thể thấy rằng, biện pháp áp dụng trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chủ yếu là trách nhiệm bồi thường vật chất.
Điều đặc biệt trong quá trình áp dụng trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực này có thể được áp dụng ngay cả khi chủ thể gây ô nhiễm, suy thoái hoặc sự cố môi trường không có lỗi, điều này thể hiện ở khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005: “... Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; Thiệt hại xảy ra do trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác...”
Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại gây nên từ các nguồn nguy hiểm cao độ như từ phương tiện giao thông vận tải, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử... làm ô nhiễm môi trường, gây thiệt hại cho người khác.
1.3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường(Điều 13 Nghị định 113/2010/NĐ-CP của Chính phủ)
Một là, ô nhiễm, suy thoái ở một khu vực địa lý tự nhiên do nguồn phát sinh chất thải hoặc hành vi xâm hại tại khu vực đó hoặc không tại khu vực đó nhưng tác động xấu đến khu vực đó;
Hai là, có cơ sở khoa học về tồn tại mối liên hệ giữa các chất gây ô nhiễm có thể phát sinh từ nguồn thải hoặc hành vi xâm hại với tình trạng này làm suy giảm chức năng và tính hữu ích của môi trường;
Ba là, việc xác định tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường phải đảm bảo kịp thời và công bằng.
1.4. Căn cứ để xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường(Điều 130 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005)
Thứ nhất, suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Thứ hai, thiệt hại về tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
1.5. Cơ chế giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trườngđược quy định tại Điều 133 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Điều 14 Nghị định 113/2010/NĐ-CP: “Việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường được quy định như sau: Tự thỏa thuận của các bên; yêu cầu trọng tài giải quyết; khởi kiện tại Tòa án”.
2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Mặc dù trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã được pháp luật quy định nhưng vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
Thứ nhất:Đối với các hình thức trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm chưa được quy định đầy đủ và thống nhất, điều này thể hiện tại Điều 624 Bộ luật Dân sự và Điều 93 khoản 1 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Tại điều 624 Bộ luật Dân sự quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường...”, trong khi đó điểm d khoản 3 Điều 93 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 lại quy định: “... Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường có trách nhiệm sau đây: ... Bồi thường thiệt hại theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” với cách dẫn chiếu như vậy thì rất khó trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ hai:Nghị định 113/2010/NĐ-CP ban hành ngày 03/12/2010 của Chính phủ là Nghị định ban hành khá chi tiết về việc xác định thiệt hại đối với môi trường, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện ở chỗ: Tại Điều 1 của Nghị định quy định: “Nghị định này xác nhận thiệt hại đối với môi trường bao gồm: Thu thập dữ liệu, chứng cứ, để xác định thiệt hại đối với môi trường, tính toán thiệt hại đối với môi trường và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra trong các trường hợp sau đây:
(a) Môi trường nước phục vụ mục đích bảo tồn, sinh hoạt, giải trí, sản xuất và mục đích khác bị ô nhiễm, bị ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng, bị ô nhiễm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng;
(b) Môi trường đất phục vụ mục đích bảo tồn, sản xuất và mục đích khác bị ô nhiễm, bị ô nhiễm ở mức độ nghiêm trọng, bị ô nhiễm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng;
(c) Hệ sinh thái tự nhiên thuộc và không thuộc khu bảo tồn thiên nhiên bị suy thoái;
(d) Loài được ưu tiên bảo vệ theo quy định của pháp luật bị chết, bị thương”.
Như vậy, theo quy định này thiếu hẳn một số yếu tố môi trường quan trọng khác đó là không khí, ánh sáng, âm thanh, vì theo khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 thì: “Thành phần môi trường bao gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, hệ sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác”. Trên thực tế hiện nay, ô nhiễm ở nước ta chủ yếu tập trung ở ô nhiễm đất, nước và không khí, trong ba loại ô nhiễm này, thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Tại Điều 3 Nghị định 113/2010/NĐ-CP quy định chủ thể được yêu cầu bồi thường thiệt hại là Ủy ban nhân dân các cấp. Nếu bên vi phạm không bồi thường thì có quyền khởi kiện tại Tòa án. Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích hợp pháp của Nhà nước. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án nhân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”. Điều 162 đã được hướng dẫn thi hành tại Nghị quyết số 02/2006 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, theo đó cơ quan tài nguyên môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu buộc cá nhân, tổ chức có hành vị gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố môi trường công cộng. Như vậy, khi một khu vực dân cư bị ô nhiễm thì những người dân trong khu vực đó không thể tự mình làm đơn khởi kiện mà phải làm đơn gửi Ủy ban nhân dân thay mặt họ đứng ra giải quyết hoặc ủy quyền cho tổ chức nào đó, như Hội Nông dân (giống trong vụ kiện Công ty Vedan). Việc thông qua một tổ chức đứng đơn kiện thay dẫn đến hệ quả có bao nhiêu nguyên đơn thì phải có từng đấy vụ kiện và người được ủy quyền phải đại diện cho từng nguyên đơn, như vậy thì chi phí xã hội sẽ cao do có nhiều vụ kiện cùng tính chất được lặp đi, lặp lại một cách máy móc. Mặt khác, thực tế cho thấy, các cơ quan thay mặt người dân khởi kiện (Ủy ban nhân dân các cấp hay cơ quan tài nguyên môi trường) có khi lại đứng về phía các cá nhân hoặc tổ chức gây ô nhiễm môi trường, vì các tổ chức này chính là người kêu gọi đầu tư và cấp phép cho các dự án hoạt động tại địa phương mình (điều này có thể thấy được qua vụ Vedan xả nước bẩn ra môi trường phải sau 14 năm mới bị phát hiện và xử lý).
Thứ ba:Theo quy định của pháp luật, thì thời hạn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước bị xâm phạm (theo điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004). Nếu áp dụng quy định này cho việc yêu cầu đòi bồi thường trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là không hợp lý, vì trên thực tế trong lĩnh vực môi trường thì ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm không hoàn toàn trùng khớp với ngày phát sinh thiệt hại, ví dụ như thiệt hại đối với người bị nhiễm phóng xạ, nhiễm chất độc.
Ngoài ra, pháp luật hiện nay còn bỏ trống chưa quy định việc sau khi nhận được tiền bồi thường do cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường chi trả, thì Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan tài nguyên môi trường tiến hành chi trả cho người dân theo cơ chế nào? Điều này trên thực tế đã xảy ra như trong vụ Vedan chi trả tiền bồi thường cho Ủy ban nhân dân nơi bị ô nhiễm, sau đó các cơ quan này tiến hành chi trả cho các hộ dân không công bằng đã dẫn đến khiếu kiện. Đây chính là kẽ hở của pháp luật, do đó đã tạo điều kiện cho các cấp chính quyền địa phương làm sai.
Thứ tư:Hiện tại, việc xác định mức độ thiệt hại mới chỉ dừng lại ở những thiệt hại cụ thể, trc mắt có thể đo đếm được, chưa có các quy định để xác định mức độ thiệt hại lâu dài. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không xảy ra ngay sau khi có hành vi gây ô nhiễm mà phải trải qua thời gian rất dài mới nảy sinh, xuất hiện. Ví dụ như trường hợp người hoặc sinh vật bị nhiễm chất độc hóa học, chất phóng xạ sau một thời gian dài mới phát bệnh... Do vậy, trong những trường hợp như thế pháp luật cần có quy định cụ thể về việc xác định trách nhiệm lâu dài. Để làm được việc này, nhất thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà làm luật với các chuyên gia quản lý môi trường và kinh tế môi trường để có thể xác định được những hành vi nào có khả năng để lại hậu quả lâu dài và cách thức tính các loại thiệt hại này.
Thứ năm:Các quy định về việc sử dụng nguồn kinh phí để khắc phục ô nhiễm môi trường và bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra (đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước) còn chưa rõ ràng, thiếu thống nhất. Một thực tế nảy sinh trong quá trình áp dụng biện pháp trách nhiệm bồi thường thiệt hại là các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhà nước) không biết sử dụng kinh phí nào để bồi thường thiệt hại khi họ là chủ thể gây thiệt hại và có trách nhiệm phải bồi thường, có doanh nghiệp thì tính khoản bồi thường thiệt hại vào giá thành sản phẩm, trong khi đó có doanh nghiệp lại bị trừ vào lợi tức sau thuế.
Thứ sáu:Cần xác định rõ biện pháp khắc phục hậu quả do ô nhiễm môi trường thuộc loại trách nhiệm nào (hành chính hay nhân sự), vì theo quy định tại Điều 268 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình, chủ sở hữu phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô nhiễm môi trường, thì chủ sở hữu có trách nhiệm chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc phục hậu quả và phải bồi thường thiệt hại”, nhưng tại Điều 3 và các điều khác trong Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng quy định các cá nhân hoặc tổ chức gây ô nhiễm môi trường ngoài việc bị xử phạt, còn bị áp dụng hình phạt bổ sung như: Buộc phục hồi môi trường, thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường... Như vậy, biện pháp phục hồi môi trường, khắc phục ô nhiễm môi trường thuộc trách nhiệm dân sự hay trách nhiệm hành chính? Rõ ràng, ở đây có sự quy định chồng chéo giữa các quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thứ bảy:Thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, do giá trị của các thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên đa số các trường hợp, việc áp dụng trách nhiệm bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. Pháp luật cần có các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như, người gây thiệt hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó, kể từ ngày áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tóm lại, trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay đóng một vai trò quan trọng nhằm góp phần làm giảm sự ô nhiễm, suy thoái môi trường. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là cần thiết./.