Thi hành phép quân điền tại Bình Định năm 1839
Vì từ ngữ hơi giống nhau, nên dễ hiểu nhầm phép quân điền cũng là định lệ quân cấp công điền, nếu không nghiên cứu kỹ nội dung. Do lẫn lộn đó mới cho rằng: trước quân điền ở Bình Định đã có ít nhất ba lần chính quyền phong kiến ban hành phép quân điền. Vậy nên cần phân tích rõ như sau:
1. Ba lần ban hành định lệ quân cấp công điền(*)
1) Lần thứ nhất vào thời Lê sơ.
Năm 1429, Lê Lợi “chỉ huy cho các quan văn võ đại thần bàn việc lớn của nhà nước. Như người đi đánh giặc thì nghèo, người rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước đất để ở, mà những kẻ du thủ du thực… lại có ruộng đất quá nhiều.. Nay sắc chỉ cho các đại thần bàn định số ruộng cấp cho quan quân và dân, trong từ đại thần trở xuống, cho đến các người già yếu, mồ côi, goá bụa… trở lên, loại nào được cấp bao nhiêu thì tâu lên” (1). Không biết các đại thần bàn định số ruộng cấp cho thần dân ra sao, nhưng đến năm 1449, Đại Việt Sử ký ghi: “Trước kia, Thái Tổ [Lê Lợi] muốn chia ruộng cho nên bỏ Chương Điền Sảnđi, đến đây thêm vào” (2) bộ Luật lệ. Sau này, Phan Huy Chú nhận định: “Xét phép chia ruộng của hồi đầu nhà Lê, thứ bậc như thế nào thì không thể biết rõ được nữa; nhưng đại khái số ruộng đem cấp, đều là ruộng công; chứ ruộng tư của dân thì chưa có lấy đem chia bao giờ” (3).
2) Lần thứ hai, năm 1711 đời Vĩnh Thịnh ra định lệnh quân cấp công điền
Phan Huy Chú mô tả và phân tích định lệ này với nhiều chi tiết rõ ràng: hạn năm quân cấp, tính tổng số diện tích công điền của từng xã, chia công điền ra thành nhiều phần, mỗi cấp quan dân tuỳ theo thứ bậc được mấy phần… Nay trích dẫn những điểm tiểu biểu như sau:
“Hạn năm quân cấp thì vẫn theo lệ cũ 6 năm một lần… Về ruộng công thì dân trong xã nên kể cả xem số người là bao nhiêu, số ruộng là bao nhiêu; nhiều ruộng thì chia mỗi phần hàng mẫu, ít ruộng thì chia mỗi phần hàng sào, hàng thước… Về ruộng công, ruộng tư, thì các xã nên tính rõ xem có bao nhiêu ruộng công, có bao nhiêu người không có ruộng (tư) hay có ít ruộng (tư), rồi chiếu số mà liệu chia cấp, ai đã có ruộng của mình, ruộng của vợ, đủ phần rồi, thì thôi không cấp nữa; ai có ruộng mà ít còn thiếu thì cấp thêm… Lệ quân cấp thì trên từ các quan viên, dưới đến những người goá vợ goá chồng, mồ côi, độc thân, tàn tật, cụt chân tay đều quân cấp cho cả… Theo lệ cũ, những quan viên được cấp ruộng, mà ai đã được cấp rồi thì thôi không cấp nữa… Phàm lệ cấp ruộng, thì lấy bậc cuối cùng trong hàng phẩm thứ đương tại chức làm tiêu chuẩn, ở bậc cuối cùng thì được cấp ruộng 9 phân, từ đấy trở lên, cứ cao hơn một bậc thì được thêm ruộng nửa phân… Những thuộc viên và binh lính tuy đã có lương cũng được cấp ruộng… (Sau đó là các) Hạng ruộng 8 phân rưỡi… cấp cho Câu kê, Cai đội… Hạng ruộng 8 phân v.v… Hạng ruộng 7 phân cấp cho các chức cửu phẩm tạp lưu… Hạng ruộng 3 phân cấp cho những người phế tật, tàn tật, trẻ mồ côi, người ngoại quốc quy thuận… Xét lệ cấp ruộng ở đời Vĩnh Thịnh, đại khái cũng châm chước theo lệ cũ của hồi đầu nhà Lê, nhưng phép đặt ra cũng đã dung hoà… Nước ta chỉ có xứ Sơn Nam Hạ là có rất nhiều ruộng đất bãi công, việc quân cấp chỉ làm ở nơi ấy là phải, còn ra các hạng ruộng công không có mấy, nơi nào có thì cũng chỉ đủ để làm ruộng lương lính, ruộng ngụ lộc, mà không thể phân san cho các hạng dân được. Còn ruộng tư của dân thì không bao giờ đem phân chia”(4).
3) Lần thứ ba, tháng 4 năm Giáp Tý (1804), ban hành định lệ quân cấp công điền công thổ.
Gia Long “sai đình thần tham khảo phép cũ (chắc từ đời Lê), bàn định việc chia cấp theo thứ bực khác nhau.
“1- Khẩu phần thì ở trên nhất phẩm được 18 phần, chánh nhất phẩm 15 phần,… chánh tứ phẩm 12 phần,… chánh tòng cửu phẩm và vị nhập lưu đều 8 phần,… các hạng dân đinh và lão tật 5 phần rưỡi,… các hạng tiểu nhiêu, nhiêu tật, đốc phế 4 phần,… con mồ côi, đàn bà goá 3 phần…
“5- Cứ hạn 3 năm thì chia cấp ruộng một lần, chiếu theo ruộng tốt xấu chia cho đều. Khi đã quân cấp rồi mà có quan mới được thăng bổ hay dân hạng mới kén (chọn) làm lính, và những dân đinh tục thêm, thì cho xã dân trích lấy những ruộng của người chết đã mãn tang và đàn bà goá đi lấy chồng mà chia cấp. Nếu không có các thứ ruộng ấy, thì đợi đến kỳ quân cấp sau, chiếu hạng cấp cho” (5).
Như vậy, 3 lần quân cấp công điềntrên đây đều theo chính sách phân chia ruộng công cho toàn thể quan quân và thứ dân, đặc biệt cho những ai không có ruộng đất tư. Đó là chính sách lấy công điền chế ngự tư điền.
II. Tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thi hành phép quân điền tại Bình Định.
Nguyên Bình Định xưa chưa có 1 phần 10 là công điền, trong khi Thừa Thiên, Quảng Ttrị thì công điền nhiều hơn tư điền, còn Quảng Bình thì công tư ngang nhau. Cho nên năm 1838, Võ Xuân Cẩn tổng đốc Bình Định – Phú Yên đề nghị: “Bình Định chỉ có trên 5 nghìn mẫu công điền mà tư điền thì có trên 7 vạn 1 nghìn mẫu. Tư điền thường bị bọn hào phú chiếm cả, người nghèo không nhờ cậy gì. Vậy xin xét định ra quy chế, phàm tư điền định hạn cho 5 mẫu, ngoài ra làm công điền cả, chia cấp cho binh dân để làm lương điền, khẩu phần điềngiúp cho tất cả sinh sống” (6). Minh Mạng không thuận nói: “Đời xưa chia ruộng cho dân làm ăn sinh sống… thực là ý tốt. Nhưng xưa - nay sự đời đã khác nhau, phép Tỉnh điềnđã bãi bỏ ở đời Tần, trải qua Hán - Đường - Tống vẫn không làm lại được… Huống chi tư điền là sản nghiệp đời đời,… nay vô cớ cắt lấy của riêng là vốn liếng làm ăn khó nhọc của người ta, chắc sẽ làm mất lòng,… lại gây thêm nhiễu sự triền miên. Vậy việc ấy không thể làm được” (7).
Năm 1839, Võ Xuân Cẩn được gọi về kinh giữ chức Thượng thư bộ Hình. Vì hiểu rõ tình hình ruộng đất quá bất công ở Bình Định, Cẩn ráo riết vận động. Minh Mạng ngần ngừ ngại khó. Nhưng lục bộ họp bàn có thể làm được, Minh Mạng thuận theo. Sau đó, Võ Xuân Cẩn và Doãn Uẩn (Tham tri bộ Hộ) đi Bình Định thi hành phép quân điền. Tới nơi, Cẩn dâng sớ: “Đã cho đòi tổng lý và các phú hộ đến hiểu dụ về việc quân điền, chúng đều vui vẻ thoả thuận” (8). Việc quân điền và làm lại sổ sách địa bạ phải mất ba tháng. “Toàn tỉnh Bình Định có 678 thôn ấp, trừ 30 thôn ấp co công tư điền ngang nhau, 1 ấp xiêu tán, 2 ấp không gọi lính, còn số thôn ấp cần chia ruộng lại là 645” (9). Việc quân điền không phải chỉ tiến hành trên phạm vi từng thôn, mà phải tiến hành với từng điền chủ có nhiều ruộng.
Cộng chung toàn tỉnh, trước khi quân điền có 6,58% công điền và 93,42% tư điền (5.000 mẫu công điền/ 71.000 mẫu tư điền); sau khi quân điền có 53,79% công điền và 46,21% tư điền 40.009,7 mẫu công điền/ 34.369,1 mẫu tư điền (10). Như vậy, quân điền là chia lại tư điền, chủ yếu bằng cách thuyết phục. Tất nhiên, người vô sản được chia công điền thì hồ hởi, còn giới điền chủ bị chia bớt tài sản thì tránh sao khỏi có người bất mãn khiếu nại…
Tóm lại, các lần định lệ quân cấp công điền- như 3 lần nói trên và nhiều lần khác - là những quy định phân chia ruộng công của mỗi xã thôn ra từng khẩu phần, rồi cấp cho mọi thành phần quan quân và dân cả nam lẫn nữ trong làng theo số khẩu phần khác nhau. Còn phép quân điềnthi hành tại Bình Định năm 1839 là chia lại ruộng cho thành nửa công điền và nửa tư điền.
Trong lịch sử Việt Nam, phép quân điền thi hành tại Bình Định năm 1839 là rất độc đáo và là lần duy nhất vậy.
Địa chí địa bạ và phép quân điền xưa tại Bình Định Ngày 11 - 10/2001, UBND tỉnh Bình Định, Sở KHCN & MT tỉnh đã tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học “Địa chí địa bạ và phép quân điền xưa tại Bình Định” của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu. Hội đồng khoa học nghiệm thu do ông Phạm Bá (PCT UBND tỉnh Bình Định) làm chủ tịch, hai phản biện chính: PGS Vũ Minh Giang, Thạc sĩ Nguyễn Đỗ Quyên và một số đại diện các ban ngành của tỉnh đã đánh giá cao công trình “Địa chí địa bạ và phép quân điền xưa tại Bình Định”. Được biết Địa chí Bình Định gồm 9 tập sẽ tiếp tục được nghiệm thu để cuối năm 2001 tiến hành xuất bản. |
__________________
Chú thích :
1) Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử toàn thư. Tập III, NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1972, trang 67 - 68.
2) Như trên, trang 159.
3) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí. Lưỡng thần và Cao Nãi Quang phiên âm và dịch thuật; tiến sĩ hán học Nguyễn Sĩ Giác nhuận sắc. Đại học Luật khoa XB. Nhà in Bảo Vinh, Sài Gòn, 1957, trang 443 - 445.
4) Như trên, trang 431 – 443.
5) Quốc sử quán, Đại Nam thực lục. Chính biên, tập III. Tổ phiên dịch Viện sử học. NXB Sử học. Hà Nội, 1963, trang 186.
6) Như trên. Tập XX, trang 258.
7) Như trên, cùng trang.
8) Như trên. Tập XXI, trang 149.
9) Như trên, trang 150.
10) Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn. Tỉnh Bình Định. NXB TPHCM. 1994. Tập I, trang 151.
-----
* quân cấp công điền: cấp ruộng đất công theo đầu người
Nguồn: Xưa và Nay, số 102, tháng 10 năm 2001, tr 20 - 21








