Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 28/10/2025 14:31 (GMT+7)

Sơn La: Phát triển chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê

Thông qua các chuỗi liên kết gần 70% sản lượng cà phê được tiêu thụ; giá trị cà phê tăng gấp 1,5 - 2 lần so với bán nguyên liệu thô, sơ chế (cà phê nhân, cà phê thóc); tạo thu nhập ổn định cho hơn 18.000 hộ trồng cà phê, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động mùa vụ, góp phần giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.

Được thiên nhiên ưu đãi, tỉnh Sơn La có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp để canh tác cây cà phê chè Arabica, đặc biệt là ở vùng dọc Quốc lộ 6 cao nguyên Sơn La. Ngay từ cuối những năm 1980, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai “Chương trình phát triển cây cà phê chè - Arabica”, đặc biệt từ năm 2017, cà phê Sơn La được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhiều cơ chế chính sách mới đã được ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả.

Tính đến năm 2024, Diện tích sản xuất cà phê của tỉnh đạt 23.312 ha, chiếm 3,18 % diện tích cà phê của cả nước; chiếm 73,84% diện tích, 75,52% sản lượng cà phê của miền Bắc; chiếm 47,9% diện tích trồng cà phê chè (cà phê Arabica) của cả nước và là tỉnh có diện tích cà phê chè lớn nhất cả nước. Năm 2024, sản lượng cà phê nhân đạt 29.838 tấn; sản phẩm Cà phê tham gia xuất khẩu giá trị đạt 88,77 triệu USD, tăng 9,33% so với năm 2023, chiếm 44,74% tổng giá trị hàng hóa tham gia xuất khẩu của tỉnh, chủ yếu sang thị trường các nước EU, Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, các nước Trung Đông và ASEAN. Đây là mức tăng trưởng ấn tượng, phản ánh hiệu quả của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết sản xuất, tái canh giống mới và mở rộng thị trường tiêu thụ. Cây cà phê không chỉ tạo thu nhập ổn định cho hơn 18.000 hộ trồng cà phê, mà còn đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm cho hàng nghìn lao động mùa vụ, góp phần giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.

tm-img-alt

Cán bộ kỹ thuật Công ty Phúc Sinh Sơn La hướng dẫn chăm sóc bón phân cho nông dân trong chuỗi liên kết của Công ty

Phát triển chuỗi liên kết trong sản xuất

Đóng góp vào thành công đó là những mối Liên kết chuỗi trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm CCP. Từ năm 2017, nhằm phát triển ngành cà phê bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho nông dân, tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều chính sách thúc đẩy liên kết chuỗi trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm cà phê, các chính sách, giải pháp tập trung vào:

- Tăng cường mối liên kết giữa nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp (DN) để tạo đầu ra ổn định, bền vững cho nông dân/HTX.

- Hỗ trợ kỹ thuật canh tác, giống chất lượng cao và quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn để nâng cao năng suất, chất lượng cà phê.

- Khuyến khích xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ đảm bảo về nguồn gốc, xuất xứ và nâng cao thương hiệu cà phê Sơn La trên thị trường trong nước và quốc tế.

- Thu hút các DN, HTX xã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến theo chuỗi liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm nhằm gia tăng giá trị sản phẩm cà phê qua chế biến và thương mại góp phần đưa thương hiệu “Cà phê Sơn La” ra thế giới.

Các chuỗi liên kết đã thúc đẩy phát triển diện tích, tăng sản lượng, nâng cao chất lượng cà phê, hình thành các vùng trồng cà phê có chất lượng cao.  Đến nay tỉnh Sơn La đã được công nhận 02 vùng ứng dụng công nghệ cao cho cà phê và đang duy trì phát triển với diện tích 1.039,5 ha, 1.560 hộ gia đình tham gia: (1) Vùng sản xuất cà phê ứng dụng công nghệ cao của Công ty cổ phần Phúc Sinh Sơn La; quy mô: 876 hộ gia đình, cá nhân liên kết sản xuất 671,4 ha; (2) Vùng sản xuất cà phê ứng dụng công nghệ cao của Công ty cổ phần chế biến cà phê Sơn La: quy mô: 679 hộ gia đình, cá nhân liên kết sản xuất 368,1 ha. Đồng thời phát triển được 1.120 ha cà phê đặc sản, sản lượng đạt gần 1.000 tấn nhân/năm.

Trên toàn tỉnh hiện có hơn 19.100 ha cà phê được chứng nhận bền vững theo các tiêu chuẩn RA, 4C, VietGAP và tương đương; Hình thành 05 chuỗi sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn bền vững gắn với các doanh nghiệp, hợp tác xã: Công ty TNHH xuất nhập khẩu cà phê Minh Tiến; Công ty cà phê Phúc Sinh Sơn La; Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Cát Quế; Công ty CP Cà phê Detech (HTX cà phê Đào Chiềng Ban); Công ty cổ phần chế biến cà phê Sơn La; HTX Cà phê Bích Thao... sản phẩm được chế biến sâu, đa dạng hơn. Duy trì sản xuất 05 chuỗi cà phê với diện tích 2.160 ha, sản lượng 4.518 tấn nhân/năm.

Huyện Mai Sơn (cũ), vùng sản xuất cà phê lớn nhất tỉnh với 8.569 ha, địa phương đã ban hành đề án tái canh giai đoạn 2021-2025, với mục tiêu tái canh, cải tạo 2.300 ha cà phê tại 11 xã trọng điểm. Hiện nay, hơn 1.143 ha cà phê tại 18 bản của các xã Chiềng Ban, Chiềng Chung, Chiềng Dong đang ứng dụng công nghệ cao, với sự tham gia của 1.606 hộ dân. Huyện cũng triển khai dự án hỗ trợ sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị liên xã, hỗ trợ 291 hộ dân của 6 bản tại 2 xã với tổng kinh phí trên 1,7 tỷ đồng, thành lập mới 6 HTX chuyên ngành cà phê. Mai Sơn còn là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp liên kết sản xuất cà phê quy mô lớn. Tiêu biểu là Công ty CP Phúc Sinh Sơn La, Công ty CP Cà phê Sơn La và Công ty CP Tập đoàn Minh Tiến, Chi nhánh Sơn La, hiện đang liên kết với hơn 2.030 hộ dân trồng cà phê trên diện tích 1.583 ha, sản xuất theo các tiêu chuẩn hữu cơ, RA, 4C và tiêu chuẩn không gây mất rừng theo quy định mới của châu Âu (EUDR).

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 05 sản phẩm cà phê được chứng nhận Ocop, trong đó 01 sản phẩm Cà phê bột nguyên chất của HTX Bích Thao đạt 5 sao, 04 sản phẩm đạt 4 sao (Aratay Coffee của HTX AraTay Coffee, Coffee Arabica Minh Trí của HTX Nông nghiệp sạch liên kết Pha Đin, Trà vỏ cà phê của HTX Bích Thao, cà phê rang xay Công ty TNHH cà phê Sơn La); có 28 doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia sản xuất, sơ chế, chế biến cà phê, trong đó: Doanh nghiệp, Hợp tác xã sản xuất, sơ chế, chế biến sâu: 26 cơ sở; Cơ sở sản xuất giống, sản xuất cà phê: 02 cơ sở (Trung tâm nghiên cứu nông lâm nghiệp Tây Bắc, Hợp tác xã Quyết Thắng. Các cơ sở chế biến khoảng trên 50% sản lượng cà phê quả tươi cho tỉnh Sơn La, còn lại được chế biến tại các cơ sở nhỏ lẻ. Các cơ sở sơ chế, chế biến đã quan tâm đầu tư hệ thống xử lý nước thải, chất thải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường và sử dụng hiệu quả các sản phẩm phụ để sản xuất phân bón hữu cơ.

Hàng năm các doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia chế biến sâu 4.440 tấn cà phê nhân, trong đó: Công ty TNHH xuất nhập khẩu cà phê Minh Tiến 40 tấn/năm; Cty CP chế biến cà phê Sơn La 20 tấn/năm của Công ty Cổ phần Phúc Sinh Sơn La 3.491,6 tấn/năm; Công ty CP Cà phê Detech 200 tấn/năm; Hợp tác xã Bích Thao chế biến 683 tấn/năm; HTX Ara- Tay Coffee 5 tấn/năm.

Trên địa bàn tỉnh Sơn La đã hình thành những chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ khá đa dạng và phong phú. Nhưng chủ yếu là hai mối liên kết sau:

* Liên kết ngang

- Hộ gia đình (Sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn) – Hợp tác xã.

- Hộ gia đình (Sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn) – Doanh nghiệp.

- Hợp tác xã, cơ sở thu mua (sơ chế) – Doanh nghiệp.

* Liên kết dọc

- Hộ gia đình (Sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn) → Hợp tác xã, cơ sở thu mua (sơ chế) → Doanh nghiệp → tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

- Hộ gia đình (Sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn) → Hợp tác xã (Sơ chế, chế biến sâu, đóng gói) → tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

- Hộ gia đình (Sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn) → Doanh nghiệp (Sơ chế, chế biến sâu, đóng gói) → tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

- Hợp tác xã, cơ sở thu mua (sơ chế) → Doanh nghiệp → tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Song song với việc hình thành các liên kết chuỗi trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê, tỉnh đã thành lập Hội Cà phê Sơn La. Hội được thành lập theo Quyết định 2141/QĐ-UBND ngày 4/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh. Hội là tổ chức xã hội nghề nghiệp của những người sản xuất, chế biến, kinh doanh cà phê, với mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động hiệu quả. Đồng thời, Hội rất tích cực tham gia trong xây dựng, quản lý, phát triển thương hiệu chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê Sơn La; giúp người sản xuất, kinh doanh, chế biến cà phê nâng cao hiệu quả sản xuất, hình thành các mô hình liên kết sản xuất cà phê bền vững, nâng cao thu nhập cho người sản xuất.

Liên kết chuỗi trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ đã mang lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia:

Hộ gia đình/HTX: ổn định đầu ra cho sản phẩm, có thu nhập ổn định, được hỗ trợ kỹ thuật và vật tư từ các doanh nghiệp. Thông qua các chuỗi liên kết gần 70% sản lượng cà phê được tiêu thụ; giá trị cà phê tăng gấp 1,5 - 2 lần so với bán nguyên liệu thô (cà phê nhân, cà phê thóc).

- Doanh nghiệp: có nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao; được nhà nước hỗ trợ trong thu hút đầu tư trong sản xuất, chế biến nâng cao thương hiệu sản phẩm; hỗ trợ xúc tiến đầu tư, xuc tiến thương mại, xây dựng chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu sản phẩm, quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước.

- Nhà nước: thực hiện được phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Người tiêu dùng: được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm cà phê có chất lượng, rõ nguồn gốc.

 Tuy nhiên trong các hoạt động chuỗi liên kết cũng còn có một số hạn chế, khó khăn nhất định, nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khó khăn trên là do chưa có sự gắn kết chặt chẽ, thiếu cơ chế ràng buộc về hợp đồng. Lợi ích về kinh tế chưa được liên thông chia sẻ trong toàn chuỗi, mới chỉ theo một khâu, hoặc một công đoạn nhất định; Thiếu vốn và công nghệ; Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún; Thiếu thông tin thị trường và năng lực quản trị chuỗi yếu; Hạ tầng giao thông và logistics còn hạn chế; Chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ; Biến động thị trường và rủi ro giá cả... 

tm-img-alt

Vùng liên kết trồng cà phê chất lượng cao tại khu vực Mai Sơn

Giải pháp vềcông tác liên kết chuỗi, tiêu thụ sản phẩm từ cây cà phê

Từ những hạn chế và nguyên nhân trên, trong những năm tới, để phát triển cây cà phê bền vững, với hiệu quả kinh tế cao, liên kết chuỗi giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm từ cây cà phê cần tập trung một số giải pháp sau:

- Giải pháp về tổ chức sản xuất và liên kết chuỗi

+ Phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác hiệu quả

Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất theo hướng gắn kết trực tiếp giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ trên địa bàn tỉnh giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp sản xuất, chế biến và tiêu thụ cà phê dưới hình thức kinh doanh tổng hợp, lợi nhuận cùng hưởng và rủi ro chia sẻ.

Hỗ trợ thành lập, củng cố hình thành các HTX nông nghiệp chuyên cà phê quy mô lớn, tăng cường vai trò "cầu nối" giữa nông dân và doanh nghiệp. Nâng cao năng lực quản trị HTX qua đào tạo, tập huấn, kết nối mạng lưới liên kết.

+ Tăng cường ký kết hợp đồng liên kết chuỗi

Thúc đẩy việc ký hợp đồng sản xuất, bao tiêu sản phẩm dài hạn giữa nông dân - HTX - doanh nghiệp, có sự hỗ trợ của chính quyền về pháp lý. Có cơ chế xử lý tranh chấp hợp đồng, đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia.

- Giải pháp về kỹ thuật và ứng dụng công nghệ

+ Tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật, tập huấn về kỹ thuật canh tác bền vững, nông nghiệp hữu cơ, tưới tiết kiệm, chế biến sau thu hoạch. Khuyến khích áp dụng truy xuất nguồn gốc, số hóa quy trình sản xuất.

+ Hỗ trợ xây dựng chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng như: VietGAP, UTZ, Rainforest, hữu cơ... để nâng cao giá trị và tạo niềm tin với doanh nghiệp, thị trường.

- Giải pháp về thị trường và tiêu thụ

+ Đẩy mạnh quảng bá thương hiệu cà phê Sơn La gắn với chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc. Tổ chức hội chợ, kết nối cung – cầu, xúc tiến thương mại.

+ Hỗ trợ doanh nghiệp địa phương tiếp cận thị trường xuất khẩu (EU, Nhật, Mỹ…). Hợp tác với các chuỗi bán lẻ lớn, sàn thương mại điện tử để tiêu thụ sản phẩm cà phê chế biến.

- Giải pháp về vốn và hạ tầng

+ Tăng khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi: tạo điều kiện để nông dân, HTX vay vốn từ Ngân hàng Chính sách, Quỹ phát triển HTX, với lãi suất ưu đãi. Có chính sách tín dụng riêng cho các chuỗi sản xuất liên kết hiệu quả.

+ Đầu tư hạ tầng vùng nguyên liệu: cải thiện giao thông nông thôn, kho bảo quản, trạm sấy, cơ sở chế biến tại chỗ. Phát triển hệ thống tưới tiêu và cảnh báo thời tiết cho vùng trồng cà phê.

- Giải pháp về chính sách và quản lý Nhà nước

+ Nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với phát triển cây cà phê: rà soát, sửa đổi bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách điều tiết trực tiếp các liên kết kinh tế nói chung, trong phát triển cây cà phê nói riêng, nâng cao hiệu lực của chính sách thông qua các hoạt động triển khai để chính sách tạo lập được môi trường pháp lý và kinh tế cho các hoạt động liên kết.

+ Hoàn thiện cơ chế hỗ trợ liên kết chuỗi giá trị; tiếp tục rà soát, bổ sung và đẩy mạnh triển khai thực hiện quy hoạch phát triển cây cà phê của tỉnh Sơn La đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 làm nền tảng cho liên kết giữa các hoạt động sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm từ cây cà phê. Có cơ chế ưu tiên, hỗ trợ tài chính, đất đai, thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào chuỗi liên kết.

-Đối với tổ chức khuyến nông, doanh nghiệp:

+ Xây dựng tài liệu chi tiết, tổ chức tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch cây cà phê. Trong đó, sử dụng thuật ngữ để nông dân dễ hiểu, dễ áp dụng. Bên cạnh tài liệu văn bản có thể xây dựng tài liệu hướng dẫn bằng video, hình ảnh.

+ Đào tạo cán bộ chuyên trách về cây cà phê để hỗ trợ, hướng dẫn cho nông dân, hợp tác xã. Mặt khác, cán bộ chuyên trách về cây cà phê cần thường xuyên đến các vùng nguyên liệu nắm bắt tình hình thực tế sản xuất trong các hộ nông dân, các hợp tác xã. Liên hệ chặt chẽ với nông dân để nắm bắt khía cạnh kỹ thuật nông dân còn thiếu, còn yếu để hỗ trợ phù hợp.

- Đối với nông dân trồng cây cà phê:

+ Chủ động trao đổi, học hỏi kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch tránh làm theo lối mòn áp dụng kinh nghiệm, bảo thủ, thiếu khoa học. Đề xuất nội dung tập huấn phù hợp với nhu cầu đối với cán bộ khuyến nông, doanh nghiệp.

+ Lựa chọn các cơ sở cung cấp giống, vật tư nông nghiệp có uy tín để mua thay cho việc tự túc sản xuất cây giống không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng quả và tuổi cho quả của vườn cà phê.

+ Thực hiện tốt kỹ thuật canh tác, sản xuất, chế biến theo các quy trình chuẩn và hướng dẫn của các cán bộ kỹ thuật, khuyến nông của DN, HTX và trung tâm kỹ thuật nông nghiệp.

                                                                             Hữu Đức – LHH Sơn La

Tài liệu tham khảo:

- Kết luận số 863-KL/TU ngày 11/5/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh đến năm 2030 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

- Báo cáo số 1231-BC/BCSĐ ngày 20/02/2025 của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Sơn La Kết quả tổ chức triển khai thực hiện năm 2024 Kết luận số 863-KL/TU ngày 11/5/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Báo cáo Kết quả phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025; định hướng phát triển bền vững cây cà phê trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2026-2030 (Tài liệu hội nghị làm việc với các DN, HTX, HGĐ tiêu biểu về SX, CB và tiêu thụ cà phê trên địa bàn tỉnh ngày 09/6/2025 của UBND tỉnh).

Xem Thêm

Đắk Lắk: Bàn giao Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Khoa học kỹ thuật
Ngày 4/11, tại trường Đại học Phú Yên diễn ra lễ bàn giao Quỹ Hỗ trợ KHKT Phú Yên. Tham dự buổi lễ có ông Đào Tấn Lộc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên (cũ), Chủ tịch Hội đồng Quản trị Qũy Hỗ trợ KHKT Phú Yên; TS Trần Lăng, Hiệu trưởng trường Đại học Phú Yên.
Thái Nguyên: Phát huy vai trò của trí thức trong phát triển khoa học công nghệ
Chiều ngày 29/10, tại Trường Đại học Kinh tế - Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thái Nguyên (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Hành trình 10 năm Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên nhi đồng vùng phía Đông tỉnh Đắk Lắk
Năm 2025, tròn 10 năm vùng phía Đông tỉnh Đắk Lắk mới (Phú Yên cũ) tổ chức thành công Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên và Nhi đồng, 10 năm qua toàn tỉnh đã thu hút hàng trăm mô hình sáng tạo tham gia dự thi. Riêng giai đoạn 2024-2025, địa phương Đông Đắk Lắk đã thu hút hơn 100 đề tài dự thi. Qua tuyển chọn đã có 39 mô hình dự thi vào vòng chung kết.
Định hướng và giải pháp đột phá thực hiện Nghị quyết số 57 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Ngày 29/10, tại Trường Đại học Hùng Vương, Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Phú Thọ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Hùng Vương và Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc tổ chức Hội thảo tư vấn phản biện và giám định xã hội về “Định hướng và giải pháp đột phá thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”.
Tuyên Quang: Góp ý dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách đất đai
Ngày 29/10, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội “Quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai” (gọi tắt là Nghị quyết về cơ chế, chính sách đất đai). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hội tỉnh.
Liên hiệp Hội Việt Nam trao 100 triệu đồng ủng hộ đồng bào vùng bão lụt tỉnh Tuyên Quang
Chiều tối ngày 28/10, tại trụ sở Cơ quan Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Tuyên Quang, Đoàn công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã trao số tiền 100.000.000 đồng tới Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Tuyên Quang để ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả nặng nề do cơn bão số 10 gây ra.
Quảng Trị: Hội nghị tập huấn về kỹ thuật trồng ngô sinh khối
Ngày 28/10, Liên hiệp Hội tỉnh Quảng Trị chủ trì phối hợp với Hội Làm vườn tỉnh tổ chức Hội nghị tập huấn “Kỹ thuật trồng ngô sinh khối” tại xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Trị. Hội nghị được tổ chức nhằm mục đích cung cấp kiến thức và kỹ năng cho nhân dân về cách trông cây ngô sinh khối, giúp nâng cao năng suất và chất lượng ngô sinh khối, từ đó tăng thêm thu nhập và cải thiện đời sống người dân.

Tin mới

Chính thức khai mạc Hội nghị COP30 tại Belém, Brazil
Sáng 10/11 (giờ địa phương), Hội nghị COP30 khai mạc tại Belém (Brazil) với thông điệp mạnh mẽ: Biến đổi khí hậu không còn là nguy cơ tương lai mà là “thảm kịch của hiện tại”, đòi hỏi hành động và đầu tư khẩn cấp toàn cầu.
Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Đảng ủy Liên hiệp Hội Việt Nam cần đáp ứng 6 yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay
Đây là chia sẻ của Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy, Chánh Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Hữu Duệ tại hội thảo “Bàn về định hướng lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của Liên Hiệp hội Việt Nam trong tình hình mới” vừa được tổ chức sáng nay (10/11) do Đảng ủy Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội.