Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 18/11/2010 20:40 (GMT+7)

Sáu nguyên nhân gây nên tình trạng hạn hán và thiếu nước trên lưu vực sông Hồng

Một là,mùa mưa năm 2009 kết thúc sớm, lượng mưa ở Bắc Bộ ít, nhiều ngày không mưa, nắng nóng kéo dài gây nên tình trạng cạn kiệt dòng chảy, thiếu nước trên lưu vực sông Hồng trong những tháng mùa khô 2009 - 2010. Ngay trong mùa lũ năm 2009, từ tháng 6 đến tháng 8 lượng mưa đã thiếu hụt nhiều so với trung bình nhiều năm (TBNN) nên đỉnh lũ năm các sông đều thấp hơn nhiều so với TBNN, phổ biến chỉ ở mức báo động 1, báo động 2.

Mùa mưa năm 2009 kết thúc sớm, lượng mưa ít, nhiều ngày không mưa kéo dài.

Do tác động của hiện tượng Elnino, tổng lượng mưa từ tháng 8/2009 đến tháng 2/2010 đo được tại các trạm chính ở Bắc Bộ đều thiếu hụt từ 70-90% so với TBNN, có nơi hoàn toàn không mưa; đặc biệt, có nơi thiếu hụt nhiều như tại Sa Pa, Hà Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Tên Yên, Phù Liễn (từ 500 đến trên 600mm).

Nền nhiệt độ các tháng mùa khô 2009 - 2010 cao hơn trung bình nhiều năm từ 2 đến 3,8 0C, nắng nóng kéo dài.

Nền nhiệt độ các tháng đều rất cao, đều vượt TBNN, đặc biệt, tại khu vực Hoàng Liên Sơn, nhiệt độ trung bình các tháng đầu năm 2010 đều cao hơn TBNN từ 2 đến 3,8 0C. Nhiệt độ không khí cao làm tăng lượng bốc hơi từ mặt đất, thảm thực vật, hồ ao làm tổn thất dòng chảy lớn, nhất là dòng chảy ngầm; lượng trữ ẩm trong đất giảm nhanh, gây hạn nông nghiệp, ảnh hưởng lớn đến cây trồng, sản xuất nông nghiệp.

Hai là, hoạt động của các nhà máy thủy điện phía Trung Quốc đã làm biến đổi chế độ dòng chảy phía Việt Nam, làm căng thẳng thêm tình trạng cạn kiệt, thiếu nước trên các sông trong mùa cạn 2009-2010.

Tại các địa điểm Đoàn kiểm tra đến làm việc, người dân địa phương cho biết mực nước sông lên xuống trong ngày, thông thường thấp vào buổi sáng, cao vào khoảng 4 giờ chiều. Tại công trình thủy điện Sơn La có hiện tượng nước dao động lên xuống rất nhanh với biên độ khoảng 10 - 20 cm trong vòng 2-3 tiếng, giống như hiện tượng nước thủy triều lên xuống. Tại tỉnh Lai Châu, trên dòng chính sông Đà và trên sông nhánh Nậm Na, mực nước dao động rất mạnh trong ngày, chênh lệch vệt nước để lại trên bờ lên tới 2 m. Tại Hà Giang, nước sông Lô dao động với biên độ khoảng 0,5m, là hiện tượng chưa từng xảy ra vào những năm trước đây. Nước sông Đà tại Mường Tè trở nên trong hơn nhiều so với trước đây do các hồ chứa Trung Quốc đã giữ lại phù sa, làm ảnh hưởng tới đời sống thủy sinh và các nguồn lợi thủy sản. Đại diện lãnh đạo, các cơ quan chức năng của tỉnh Lai Châu, Hà Giang, Lào Cai và các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La đều có chung nhận xét rằng các nhà máy thủy điện phía Trung Quốc đã tích nước phía thượng nguồn sông Hồng nhưng lại không xả nước vào những thời điểm Việt Nam cần nước, làm cho việc sử dụng nước của Việt Nam trở nên bị phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc, làm ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước của Việt Nam.

Ba là, chất lượng rừng không cao là một trong những nguyên nhân làm cạn kiệt sông, suối trong mùa khô.

Các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang đều cho rằng trong những năm gần đây, mặc dù hàng năm tỷ lệ che phủ rừng ở nhiều địa phương tăng lên nhưng chất lượng rừng không cao, chủ yếu là các rừng thưa, rừng nghèo. Diện tích rừng nguyên sinh, rừng nhiều tầng rừng phòng hộ đầu nguồn và các loại rừng có khả năng giữ nước, sinh thủy đã giảm sút, làm mất đi khả năng giữ nước tại vùng đầu nguồn, khi có mưa, nước sông lên nhanh, sau mưa vài ngày sông cạn nước, trong mùa khô các mó nước ngày càng ít. Rất nhiều dòng sông hiện nay đã hoàn toàn không có nước trong mùa khô, không giống những năm trước đây sông vẫn có nước liên tục, thậm chí có thể chèo thuyền đi lại được trong mùa khô.

Bốn là, các hồ chứa lớn trên sông Hồng xả nước và tích nước chưa hợp lý.

Trong mùa khô, các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà vận hành theo yêu cầu của hệ thống điện, chưa quan tâm đầy đủ tới hạ lưu. Lưu lượng xả từ các hồ chứa quá nhỏ kết hợp với thời kỳ triều kém là nguyên nhân trực tiếp làm cho mực nước sông Hồng xuống mức 10 cm thấp nhất trong lịch sử vào 19 giờ ngày 21/02/2010.

Hiện nay, các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà vận hành theo sự điều hành của Trung tâm điều độ điện quốc gia để đáp ứng yêu cầu của hệ thống điện: khi cần phát điện nhiều thì xả qua tuốc bin nhiều, khi phát điện ít thì xả ít. Chế độ vận hành theo yêu cầu điện như vậy đã tạo nên chế độ dao động dòng chảy bất thường ở hạ du, tạo ra những sóng xả âm (nước chảy ngược, giảm lưu lượng đột ngột), làm giảm mạnh mực nước ở hạ lưu, tạo dao động mực nước lên xuống rõ rệt từ 0,5 đến 1m ở hạ lưu, gia tăng tình trạng thiếu nước ở hạ du, nhất là vào các thời điểm các hồ chứa phát điện tối thiểu trùng với kỳ thủy triều kém.

Hiện tại, lưu lượng xả nhỏ nhất từ các nhà máy thủy điện nhỏ hơn rất nhiều so với lưu lượng nhỏ nhất đã xảy ra trong tự nhiên nên không bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu cần thiết cho hạ du. Ví dụ, trước đây, khi chưa có hồ Tuyên Quang, lưu lượng nhỏ nhất quan trắc được tại đây (vị trí Na Hang) từ 1964 đến 2005 là 31 m3/s (tháng 8/1995) và lưu lượng nhỏ nhất trong các tháng 2, 3, 4, 5 tương ứng là 52, 38, 38, 37m3/s; trong khi đó quy trình vận hành của Công ty thủy điện Tuyên Quang quy định lưu lượng xả nhỏ nhất để đảm bảo dòng chảy môi trường phía hạ lưu công trình là 10m3/s, tức là nhỏ hơn 1/3 lưu lượng nhỏ nhất trong tự nhiên. Thực tế, nhiều ngày trong tháng 02/2010 nhà máy thủy điện Tuyên Quang chỉ xả khoảng 4 - 5 m3/s, rõ ràng một cách nhân tạo làm ảnh hưởng lớn tới chế độ dòng chảy ở hạ du mà trong điều kiện tự nhiên chưa bao giờ xảy ra.

Ngoài ra, dòng nước sau các hồ chứa vào mùa kiệt đều trong hơn do lượng phù sa lắng đọng ở thượng lưu nên gây xói lở, sạt bờ, làm biến hình ở các lòng sông hạ lưu như hiện tượng sạt lở ven sông ở Phú Thọ, Sơn Tây...

Mặt khác, các nhà máy thủy điện tích nước muộn vào cuối mùa lũ nên đã không tích đủ nước trong mùa khô. Trong mùa khô năm 2009 - 2010, các hồ chứa Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà đều đã không tích được đầy nước. Mực nước hồ Hòa Bình cao nhất chỉ ở mức 116,44 m - thấp hơn mực nước dâng bình thường (MNDBT) là 0,56 m; hồ Tuyên Quang 107,60 m (thấp hơn MNDBT là 12,4 m): hồ Thác Bà 53,4 m (thấp hơn MNDBT là 4,6 m). Bên cạnh nguyên nhân là lượng nước đến các hồ nhỏ, việc các hồ tích nước muộn cũng là nguyên nhân làm cho các hồ không tích được đủ nước trong mùa khô năm 2009 - 2010. Hiện nay, thời kỳ tích nước của các hồ phụ thuộc vào thời gian kết thúc mùa lũ chính vụ và lũ muộn được quy định trong Quy trình vận hành liên hồ chứa thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà trong mùa lũ hàng năm đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 80/2007/QD-TTG.

Thực tế vận hành những năm qua cho thấy, nếu các hồ tích nước theo đúng quy trình này là quá muộn để tích được đầy nước hồ trong điều kiện chế độ dòng chảy đã thay đổi do biến đổi khí hậu và do tác động của các hồ chứa phía Trung Quốc. Các hồ chứa Trung Quốc thường tích nước sớm hơn các hồ chứa phía Việt Nam, khoảng giữa tháng 7 (ở nước ta từ 20/8). Dòng chảy thượng nguồn tới sông Đà và sông Lô có khả năng giảm, mùa cạn có khả năng đến nhanh hơn.

Năm là, nước ngầm - nguồn cấp nước cho sông trong mùa khô bị suy giảm do khai thác quá mức.

Nước ngầm là nguồn cấp nước quan trọng cho sông trong mùa khô. Hiện nay, do bị khai thác quá mức, mực nước ngầm ở nhiều nơi đã bị hạ thấp nghiêm trọng. Tại Hà Nội, mực nước ngầm đang giảm xấp xỉ 1m/năm. Mặc dù chưa thể định lượng được mức độ ảnh hưởng của việc suy giảm mực nước ngầm đối với lượng nước sông trong mùa kiệt do không có các số liệu cụ thể, nhưng về mặt định tính có thể thấy rằng sự suy giảm nguồn nước ngầm đã góp phần làm gia tăng tình trạng cạn kiệt nước sông trong mùa khô.

Sáu là, đáy sông bị hạ thấp có thể là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng mực nước sông ngày càng thấp đi.

Đường quan hệ mực nước - lưu lượng H~Q trong mùa kiệt các năm gần đây đều dịch sang bên phải; nghĩa là cùng một mực nước tại Hà Nội nhưng năm sau cần một lưu lượng lớn hơn năm trước. Ví dụ: ở mực nước 2,2m tại Hà Nội năm 2004 tương ứng với lưu lượng là 860 m 3/s; nhưng các năm 2005 - 2008 tương ứng tăng dần là 920, 935, 1.130, 1.140 m 3/s. Nguyên nhân của việc hạ thấp đáy sông có thể là do tác động của hệ thống hồ chứa thượng nguồn đã giữ lại phù sa bồi đắp sông, do việc khai thác cát trên sông hoặc nạo vét lòng sông.

Những giải pháp kiến nghị thực hiện.

Tình trạng cạn kiệt, thiếu nước trên lưu vực sông Hồng đang diễn ra hàng năm với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Liên tiếp từ năm 2000 đến nay, hàng năm mực nước sông Hồng tại Hà Nội đều đạt những trị số thấp nhất trong lịch sử. Nếu không có các giải pháp thích hợp thì trong những năm tới đây, sông Hồng sẽ còn tiếp tục lập thêm những kỷ lục cạn kiệt mới. Để từng bước giảm nhẹ, khắc phục tình trạng cạn kiệt và thiếu nước trên lưu vực sông Hồng, trước mắt cần thực hiện các giải pháp sau đây:

Tăng cường giám sát nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam và giám sát việc khai thác, sử dụng nước, đặc biệt là ở hạ du các hồ chứa. Trước mắt, cần cấp bách trang bị thiết bị quan trắc mực nước tự động tại các trạm sát biên giới Trung Quốc: M­ường Tè, Hà Giang, Lào Cai và hạ d­u sông Hồng tại Sơn Tây, Hà Nội. Hiện nay, các trạm này đang quan trắc thủ công và chịu tác động mạnh mẽ điều tiếtcáchồ chứa phía Trung Quốc, đặc biệt trong mùa cạn, biên độ dao động mực nư­ớc trong ngày rất lớn có khi gần 1-1,5m.

Thay đổi chế độ vận hành xả nư­ớc và tích nước của các hồ chứa: Trong mùa lũ, trong điều kiện nguồn nước biến động bất th­ường do tác động của biến đổi khí hậu và tác động của việc sử dụng nư­ớc phía Trung Quốc, cần xem xét tích n­ước các hồ sớm hơn vào cuối mùa lũ để có thể tích đ­ược đầy nư­ớc các hồ. Trong mùa kiệt, cần xây dựng chế độ vận hành của các hồ hợp lý, hài hòa giữa yêu cầu phát điện và các nhu cầu nư­ớc khác dư­ới hạ du và phù hợp với chế độ đòng chảy th­ượng nguồn và hạ du các hồ chứa. Đối với thời kỳ cấp nư­ớc, cầnkếthợp lợi dụng thời kỳ triều cư­ờng kết hợp với việc tăng xả nư­ớc của các hồ chứa để đảm bảo các công trìnhlấyđ­ược nư­ớc đểtướivà tránh n­ước xả chảy nhanh ra biển.

Ngoài việc tăng độ che phủ, cần quan tâm đến chất l­ượng rừng, chú ý trồng các loại cây có khả năng giữ nư­ớc, sinh thủy trong mùa khô.

Thực hiện các biện pháp bảo vệ và khôi phục nguồn n­ước ngầm đang bị suy giảm nhằm tăng nguồn cấp nư­ớc cho sông trong mùa khô.

Sử dụng n­ước hiệu quả hơn bằng cách thay đổi cơ cấu sử dụng nư­ớc, thực hiện các biện pháp sử dụng tiết kiệm n­ước.

Tăng c­ường hợp tác với Trung Quốc trong việc trao đổi số liệu khí t­ượng, thủy văn trong mùa kiệt và số liệu, quy trình vận hành các hồ chứa ở thư­ợng nguồn phía Trung Quốc.

Xem Thêm

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 25/6/2025, tại Tp. Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Huế (Liên hiệp Hội TP. Huế) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức để góp phần tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023”.
An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh
Đại hội Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam (VUSTA) nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức thành công vào sáng ngày 21/7. Tại Đại hội, đại diện Đoàn Thanh niên VUSTA đã có bài phát biểu chúc mừng đại hội. Bí thư Đoàn Thanh niên Lê Thị Thủy khẳng định: “Tuổi trẻ VUSTA tự hào được rèn luyện, trưởng thành dưới cờ Đảng quang vinh và luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước”.
Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương
Hướng tới chào mừng Đại hội Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cuộc thi sáng tác biểu trưng (logo) Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương và biểu trưng (logo) Đại hội đại biểu Đảng bộ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 được chính thức khởi động từ ngày 18/7/2025.
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập hợp, đoàn kết trí thức KH&CN phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Kể từ khi Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) được thành lập ngày 26/03/1983, Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam đã trải qua 9 kỳ Đại hội, mỗi kỳ Đại hội đã thực sự trở thành những mốc son quan trọng, đánh dấu bước phát triển cả về tư duy chính trị lẫn phương thức hoạt động của toàn hệ thống.