Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 28/06/2013 22:40 (GMT+7)

“Phong cách Chánh Lộ” trong lịch sử điêu khắc Chăm

Thật ra, việc thu thập những tác phẩm điêu khắc Chăm đã bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX bởi một số người Pháp yêu thích khảo cổ học, quan tâm đến nền văn hoá Chăm, đặc biệt là những người làm việc tại EFEO và những đồng nghiệp Việt Nam. Một bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX cho thấy địa điểm được chọn để tập trung các hiện vật là một gò đất có nhiều cây lớn, rải rác đây đó ngoài trời là các mảng bệ thờ, tượng đá. Đến những năm đầu thế kỷ XX, một số hiện vật điêu khắc Chăm đã được chuyển đi Pháp, một số khác được chuyển đến các bảo tàng tại Hà Nội và Sài Gòn, tuy vậy phần lớn những tác phẩm tiêu biểu vẫn lưu lại Đà Nẵng, cho đến hiện nay.

Ý tưởng về xây dựng một nhà bảo tàng cho các tác phẩm điêu khắc Chăm đã manh nha từ năm 1902 với một đề án của Khoa Khảo cổ thuộc EFEO. Quá trình xây dựng đề án và vận động để đề án được thực hiện có sự đóng góp lớn của kiến trúc sư – chuyên gia khảo cổ Henri Parmentier, một trong những người đầu tiên tiến hành sưu tầm, nghiên cứu di sản văn hoá Chăm một cách có hệ thống và khoa học.

Vào khoảng những năm 1950-1960, bảo tàng được mở rộng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, tăng thêm các sảnh trưng bày, song vẫn bắt nhịp với kiến trúc tổng thể, mang phong cách Gothique, hài hoà vào không gian xung quanh. Sau lần cải tạo và mở rộng vào năm 2002, bảo tàng có tổng diện tích gần 7 ngàn m 2, trong đó phần trưng bày chiếm 2 ngàn m 2, giới thiệu khoảng 500 hiện vật nghệ thuật, phân theo các gian tương ứng với các khu vực địa lý nơi chúng được phát hiện, gồm 4 phòng (Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫn) và 6 hành lang (Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Quảng Bình và Bình Định). Hiện nay Bảo tàng điêu khắc Chăm là một điểm tham quan thu hút nhiều nhà nghiên cứu và du khách trong và ngoài nước khi đến Đà Nẵng.

Hành lang Quảng Ngãi tại Bảo tàng này trưng bày 14 hiện vật niên đại từ cuối thế kỷ X đến giữa thế kỷ XI, hầu hết được khai quật và mang về từ Chánh Lộ và một số địa phương khác của tỉnh Quảng Ngãi. Cũng xin nhắc lại rằng, Chánh Lộ là tên người đời đặt cho một cụm phế tháp Chăm, nằm trong khu vực làng Chánh Lộ, nay thuộc phường Trần Phú – thành phố Quảng Ngãi. Tháp đã bị đổ nát từ lâu và đến năm 1904 thì được H. Parmentier khai quật và tìm thấy khoảng 100 hiện vật có dáng dấp của một phong cách nghệ thuật riêng mà về sau nhà nghệ thuật học và nghiên cứu Chăm J. Boisselier gọi là “phong cách Chánh Lộ” mang những đặc điểm chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Tháp Mẫm trong dòng chảy kiến trúc – điêu khắc Chăm. Tượng thần Uma, phù điêu Sarasvarti và tượng nữ thần Laksmi là ba hiện vật rất đáng lưu ý ở hành lang Quảng Ngãi.

Tượng nữ thần Uma cao 84cm, rộng 23cm, chất liệu đá sa thạch, có niên đại khoảng thế kỷ X, tìm thấy ở làng Đông Phước, nay thuộc xã Bình Thanh Tây, huyện Bình Sơn, năm 1901. Đây là một tượng tròn, tư thế đứng thẳng. Khi mới phát hiện, tượng đã bị mất 2 cánh tay và 2 bàn chân, đến khoảng trước năm 1972, phần đầu cũng bị mất. Tuy vậy, pho tượng vẫn toát lên vẻ đẹp nữ tính, quyến rũ và duyên dáng, hai bầu vú tràn đầy sức sống với ba nếp nhăn ước lệ bên dưới, liền với phần bụng. Phần thân dưới của nữ thần khoác chiếc sarong đặc biệt, có hai lớp với nhiều chi tiết trang trí phong phú, tinh tế, chạy từ thắt lưng xuống mắt cá chân.

Uma (còn có nhiều tên gọi khác như: Parvati, Durga, Sati, Gauri, Chamunda và Kali) là vợ của thần Siva và là vị nữ thần vừa phức tạp vừa có quyền lực cao nhất trong số các vị nữ thần của Ấn Độ giáo. Henry Parmentier đãm iêu tả khá kỹ về bức tượng này trong tác phẩm Cathalogue Le musée de Cam de Tourane (1919), khi tuyệt tác chưa bị mất phần đầu. Bảo tàng Chăm Đà Nẵng ghi chú xuất xứ pho tượng ở làng “Đông Phúc” là chưa thật chính xác; có lẽ đọc nhầm âm Hán Việt trong các bản ghi chép Hán tự hoá tên làng này.

Phù điêu Sarasvati là một hiện vật có giá trị, cao 100cm, rộng 91cm, chất liệu đá sa thạch, niên đại ước khoảng thế kỷ XI, tìm thấy trong cuộc khai quật Chánh Lộ năm 1904. Sarasvati là nữ thần tri thức, âm nhạc và nghệ thuật, vợ của thần Brahma. Nữ thần thường xuất hiện trong tranh, tượng nghệ thuật và thần thoại với phong cách duyên dáng, giàu nữ tính, cưỡi trên lưng ngỗng Hamsa hoặc ngồi trên một đài sen, có bốn vật báu cầm tay gồm: quyển sách (biểu tượng của văn chương, học thuật), đàn vina (biểu tượng cho sự am tường nghệ thuật), chuỗi tràng hạt pha lê (biểu tượng cho sức mạnh tinh thần) và lọ nước thiêng (biểu tượng của năng lực sáng tạo và sự thanh tẩy). Sarasvati còn là nữ thần của sông ngòi, tượng trưng cho sự màu mỡ và thịnh vượng.

Tác phẩm trưng bày tại bảo tàng là một tấm lá nhỏ hình lá đề có chóp nhọn, thể hiện nữ thần trong tư thế múa tribhanga, chân khuỳnh, hông nhếch, ngực và bụng ưỡn về phía trước, dáng điệu mềm mại, uyển chuyển. Nữ thần đeo vòng cổ với nhiều chiếc liên tiếp nhau, chiếc trong cùng có đáy hình trái tim chạm đến khe sâu giữa hai bầu vú đầy đặn, nhưng phía dưới không có ngấn như thường thấy. Khoác trên mình nữ thần là một sampot ngắn, trang trí nhiều hoa, vạt trước dài, xếp thành nhiều nếp, buông mềm mại theo những nét uốn lượn của thân thể. Thần đội kirita ba tầng trên đầu, tai đeo nhiều vòng trang sức, khóe miệng có hai lúm sâu như thể mỉm cười.

Tượng nữ thần Laksmi (thế kỷ XI), tìm thấy ở làng Phú Nhơn, nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh. Tác phẩm có chiều cao 96cm, rộng 42cm, tạo tác bằng đá sa thạch, đứng thẳng trên một đế hình vuông, lưng tựa vào giá đỡ hình cung tròn hai ngấn, từ đỉnh đầu xuống đến vai thắt lại thành hình chiếc lá đề, phần dưới vuốt xuôi cân đối dọc theo thân thể. Nét mặt nữ thần nghiêm trang, mắt khép hờ, chân mày giao nhau, tai dài nhưng không đeo trang sức, tóc búi cao hai tầng. Chiếc cổ hai ngấn của nữ thần không mang vòng trang trí như thể kín đáo khoe vẻ đẹp đầy đặn, hợp với đôi ngực vun tròn. Phía dưới vú là những ngấn ước lệ, cho thấy vòng eo thon gọn. Đôi tay Laksmi buông theo thân mình, bên trái cầm chiếc lọ nhỏ, bên phải cầm búp sen non. Nữ thần mặc váy chấm đến cổ chân, để trơn, không trang trí, nhưng lại gợi lên vòng ba đầy đặn.

Laksmi (cũng có khi mang tên Sri) là vị thần của vận may, sức khoẻ, sắc đẹp và thịnh vượng, vì thế người ta thờ cúng nàng để cầu mong có được phú quý, sung túc và giàu sang. Nàng là vợ của Vishnu, và là mẹ của Kama - thần tình yêu, nhục cảm. Trong nghệ thuật Ấn Độ, Laksmi thường được thể hiện qua hình tượng một phụ nữ xinh đẹp, có hai hoặc bốn tay, đứng hoặc ngồi trên một đoá hoa sen - biểu tượng của vẻ đẹp tinh thần thuần tuý và tinh khiết. Theo truyền thuyết, nữ thần Laksmi sinh ra từ biển. Khi các vị thần khuấy biển sữa, nàng nổi lên từ bọt biển sáng ngời, tay cầm đoá hoa sen - một trong 14 vật quý nhất được sinh ra trong cuộc khuấy biển sữa vĩ đại này. Tại bảo tàng, tên làng tìm thấy pho tượng cũng ghi nhầm thành “Phú Nhân” (đúng phải là Phú Nhơn), nguyên nhân cũng giống như trường hợp tượng Uma Đông Phước. Nhầm lẫn này khá phổ biến, vì hiện tượng “đồng âm dị nghĩa” trong vốn tự vựng Hán Việt, đặc biệt là ở Đàng Trong, khi các âm Nhơn/Nhân khi ghi chép bằng Hán tự chỉ là một con chữ, tương tự trường hợp Phước/Phúc.

Ngoài 3 hiện vật mà cũng là 3 tác phẩm nghệ thuật độc đáo kể trên, hành lang Quảng Ngãi tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng còn trưng bày 3 bức phù điêu bằng đá sa thạch, thu hút sự chú ý của khách tham quan và các nhà nghiên cứu, đó là phù điêu Parvati, phù điêu Brahma và phù điêu Vishnu.

Phù điêu Parvati, cao 164cm, rộng 162cm, tìm thấy ở khu phế tháp Chăm Chánh Lộ, nhưng đến năm 1938 mới đưa về bảo tàng. Tác phẩm thể hiện nữ thần có 4 tay (một đôi chính và một đôi phụ), đang múa, chân khuỳnh ra. Tay phải chính cầm búp sen, có cuống dài uốn lượn đưa lên ngang tay; tay phải chính gập vào hông, cổ tay xoay ra ngoài, ngón cái và ngón giữa chạm nhau, tạo thành vòng tròn. Đầu nữ thần đội lá nhọn hình mũi lao, tóc búi cao, thắt lại ở giữa, dáng vẻ khuôn mặt tươi vui, cánh mũi cân xứng, cằm xẻ sâu ở giữa, chân mày dài, mềm mại nhưng không giao nhau. Nữ thần có khuôn ngực phì nhiêu, cổ đeo vòng trang trí có 5 viên ngọc lớn, mình khoác sampot có thân trước buông dài đến bàn chân.

Theo Ấn Độ giáo, Parvarti là nữ thần núi, còn có tên khác là Durgo, thần núi tuyết Hymalaya… Nữ thần là người vợ yêu dấu của thần Shiva, từng bị đày xuống trần gian, sống trong gia đình của một người đánh cá nghèo khổ.

Phù điêu Brahma, cao 83cm, phát hiện năm 1904 tại Khu phế tháp Chánh Lộ, có niên đại khoảng thế kỷ XI. Đây là một trong ba tác phẩm thể hiện thần Brahma hiện có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng. Phù điêu còn có dạng thô, chưa kịp hoàn tất, với hình tượng thần Brahma 3 đầu, khuôn mặt đầy đặn, hai tay có đeo vòng, cầm hai búp sen non tựa nhẹ trên đầu gối. Cả 3 đầu của vị thần đội chung một chiếc nón chóp, hai đầu tả hữu trông hơi nghiêng.

Brahma, cùng với Vishnu và Shiva là ba vị thần ở vị trí tối thượng của Ấn Độ giáo. Thần Brahma sáng tạo, định dạng vũ trụ, sinh ra con người cùng muôn vật, đồng thời canh gác và bảo vệ thế giới. Theo truyền thuyết, bốn bộ kinh Veda (Vệ đà) sinh ra từ những chiếc đầu của Brahma, vì vậy thần được xem là biểu tượng của sự thông thái.

Phù điêu Vishnu, phát hiện năm 1904 ở Phú Thọ, vốn là đất có thành Cổ Luỹ của người Chăm, nay thuộc xã Nghĩa Phú, huyện Từ Nghĩa. Tác phẩm cao 72cm, dài 192cm, niên đại ước đoán vào thế kỷ XI, khắc hoạ thần Vishnu trên biển vũ trụ Ananta, thân hình nằm nghiêng trên mình rắn Shesha. Bảy đầu rắn kết thành lọng che đầu vị thần, còn thân rắn uốn lượn theo làn sóng vô biên của biển vũ trụ. Đầu thần Vishnu có búi tóc cao hình trụ tròn,đội mũ mukuta, phía sau có vầng hào quang. Thần có hai đôi tay, một đôi chính và một đôi phụ, với 4 tư thế khác nhau của 4 cánh tay, nhìn thật sinh động và mang nhiều ý nghĩa.

Vishnu, trong thần thoại Ấn Độ, là vị thần bảo tồn, duy trì toàn bộ vũ trụ và các quy tắc của hệ thống dharma. Thần Vishnu có bản tính nhân từ, yêu thương con người và bảo vệ cuộc sống, sẵn sàng hiện xuống hạ giới để diệt loài ngạ quỷ, cứu vớt chúng sinh.

Hành lang Quảng Ngãi tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng là điểm đến không thể thiếu đối với những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu về phong cách Chánh Lộ - một phong cách nghệ thuật độc đáo trong lịch sử điêu khắc và kiến trúc Chăm.

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.