Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 25/03/2006 00:13 (GMT+7)

Nobel phải chăng còn xa vời?

Ngoại lực trong khoa học

Đã có một số nhà bác học sinh ra ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Venezuela, Argentina... được tặng giải Nobel về các ngành khoa học tự nhiên như vật lý, hoá học, sinh lý học/ y học hay huy chương Fields về toán học (chúng tôi không đề cập đến các giải Nobel văn chương và hoà bình, bởi lẽ nhiều trường hợp các giải này bị ảnh hưởng bởi nhãn quan chính trị của những người nắm quyền lựa chọn, trao tặng giải, nên gây ra tranh cãi gay gắt).

Nhưng, đến tuổi trưởng thành, hầu hết những người lỗi lạc nói trên đều được đào tạo nghiêm ngặt, với chất lượng rất cao, tại các trường đại học đẳng cấp quốc tế ở Mỹ, Anh; bảo vệ luận án tiến sĩ, rồi tiếp tục công việc nghiên cứu ở các nước đó, trong những phòng thí nghiệm hiện đại nhất, giữa môi trường khoa học tiên tiến bậc nhất. Việc họ giành được giải Nobel hay huy chương Fields rõ ràng một phần nào - nếu không muốn nói là phần lớn - nhờ vào "ngoại lực".

Năm 1957, lần đầu tiên hai nhà vật lý gốc Trung Quốc Chen Ning Yang (Dương Chấn Ninh) và Tsung-Dao Lee (Lý Chính Đạo) được tặng giải Nobel khi mới 35 tuổi và 31 tuổi, vì đã khám phá ra sự không bảo toàn tính chẵn lẻ trong tương tác yếu.

Hai ông đã học tập và nghiên cứu trong môi trường nào?

Chen Ning Yang

Chen Ning Yang

Dương Chấn Ninh sinh năm 1922 tại Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc, học đại học tại Côn Minh, nhưng sau đó, năm 1942, sang học tiếp tại Đại học Chicago, rồi bảo vệ luận án tiến sĩ tại đây năm1948, khi mới 26 tuổi.

Ông là giáo sư Đại học Quốc gia New York tại Stony Brook, là viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, viện sĩ Viện Hoàng gia Anh, kiêm cả tiến sĩ khoa học danh dự Đại học Lomonosov (Nga)...

Còn Lý Chính Đạo thì sao? Ông sinh tại Thượng Hải năm 1926, nhưng sang Mỹ học Đại học Chicago, bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1950, khi mới 24 tuổi, giảng dạy và nghiên cứu tại nhiều trường đại học hàng đầu của Mỹ như Princeton, Harvard, Columbia..., trở thành giáo sư năm 30 tuổi rồi thành viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ...

Một nhà vật lý được tặng giải Nobel rất quen thuộc với giới khoa học nước ta là Abdus Salam, người sáng lập và giữ chức chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba trong nhiều năm. Ông sinh tại Jhang, Pakistan năm 1926, học trung học tại Lahore, nhưng sau đó, sang Anh học Đại học Cambridge - nơi các nhà vật lý lừng danh như I. Newton, P. Dirac từng làm việc bảo vệ luận án tiến sĩ năm 26 tuổi, trở thành giáo sư Đại học Cambridge, được tặng giải thưởng Nobel năm 1979 vì đã cùng S. Glashow (Mỹ) và S. Weinberg (Mỹ) thống nhất tương tác điện từ; tương tác yếu thành tương tác điện-yếu.

Tsung Dao Lee

Tsung Dao Lee

Có thể điểm thêm vài ba trường hợp khác sinh ra trên những "mảnh đất cằn cỗi" song lại thành công rực rỡ. Subrahmanyan Chandrasekhar được tặng giải Nobel về vật lý và Har Gobind Khorana, giảithưởng Nobel về sinh lý học/ y học, đều là người Ấn Độ. Thế nhưng, cả hai ông đều giảng dạy và nghiên cứu tại những trung tâm khoa học nổi tiếng của Mỹ như Viện Erico Fermi, Viện Công nghệMassachusetts (MIT)...

Và César Milstein, người Argentina, sinh tại Bahia Blanca, nhưng bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Cambridge (Anh), viện sĩ Viện Hoàng gia Anh, rồi được tặng giải Nobel về sinh lý học/ y học năm 1984, do các kết quả nghiên cứu tại Anh. Còn Baruj Benacerraf, người Venezuela, sinh tại Caracas, nhưng học đại học và làm việc tại Pháp, Mỹ; là viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, được tặng giải Nobel về sinh lý học/ y học năm 1980 khi đang dạy Đại học Harvard.

Quả thật, nếu chỉ được đào tạo và nghiên cứu trên "mảnh đất cằn cỗi" ở quê hương mình, chỉ hoàn toàn dựa vào "nội lực" của nước mình, thì những bộ óc thông minh xuất chúng kể trên khó có thể phát huy hết tiềm năng để vươn tới những đỉnh cao chót vót như giải thưởng Nobel, huy chương Fields.

Với người Việt, có lẽ cũng khó có ngoại lệ

Khi "nhân tài như lá mùa thu"

Subrahmanyan Chandrasekhar

Subrahmanyan Chandrasekhar

Vậy "nội lực" của nền khoa học nước ta hiện ra sao? Việc giành được giải Nobel hay huy chương Fields phụ thuộc vào sự lớn mạnh của cả một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học và công nghệ ởtrình độ cao, trên cơ sở một nền kinh tế phát triển, một nền khoa học cơ bản tiên tiến của cả một đất nước, chứ không phải những cố gắng lẻ loi, đơn thương độc mã của dăm ba "chàng kỵ sĩ" cưỡi ngựatrên hoang mạc gọi là "khoa học"!

Theo báo cáo hằng năm của Liên Hiệp Quốc về chỉ số sáng tạo (innovation index), Việt Nam xếp thứ 82/117 nước, nằm trong nhóm các nước yếu kém, đứng sau nhóm các nước có trình độ cao và nhóm các nước dừng ở mức trung bình.

Giải thưởng Nobel, huy chương Fields chỉ trao cho những thành tựu khoa học kiệt xuất trên cái nền nghiên cứu cơ bản hùng mạnh. Cái "nền" đó được "xây đắp" trước tiên trên số lượng và chất lượng các bài báo khoa học (scientific article) được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín và số lần mỗi bài báo được đồng nghiệp trích dẫn.

Sau đó, các chuyên gia mới phân tích sâu thêm để đưa ra kết luận cuối cùng. Viện Thông tin khoa học (Institute of Scientific Information, ISI) có trụ sở tại Philadelphia (Mỹ) - một trung tâm thông tin khoa học được cộng đồng quốc tế tin cậy - qua khảo sát 5.969 tạp chí trên thế giới về hàng trăm chuyên ngành khoa học, công nghệ, xã hội - nhân văn, nghiên cứu nghệ thuật, đã vẽ nên một bức tranh, tuy chưa thể coi là chính xác 100%, nhưng đã khá hoàn chỉnh về một nền khoa học hiện đại.

Hằng năm, trên thế giới công bố khoảng 800.000 bài báo khoa học, trong số đó Mỹ chiếm 300.000 bài, Nhật Bản 75.000, Đức 66.000, Anh 59.000, Trung Quốc 57.000, Pháp 47.000... Còn Việt Nam? Trung bình hằng năm chỉ được đăng khoảng 200 - 450 bài! Thế mà trong con số ít ỏi ấy, 3/4 lại là những bài mà người Việt Nam là đồng tác giả với người nước ngoài! Chỉ có 1/4, tức khoảng 80 bài, là hoàn toàn của người Việt Nam, được thực hiện chủ yếu bằng "nội lực".

Ngô Bảo Châu

Ngô Bảo Châu

Chỉ cần xem lướt mấy con số nói trên, ta đã có thể lý giải vì sao Mỹ là nước giành được nhiều giải thưởng Nobel, huy chương Fields nhất thế giới. Từ 300.000 công trình của Mỹ, rõ ràng dễ tìmra vài ba công trình thật xuất sắc xứng đáng với giải thưởng Nobel, huy chương Fields hơn là từ con số vẻn vẹn 80 công trình của các tác giả Việt Nam ở trong nước! Thôi, đừng nên so sánh với một siêucường khoa học như Mỹ nữa! Hãy so sánh "nội lực" nghiên cứu khoa học của Trung Quốc với ta thì, qua mấy con số nói trên của ISI, tình hình cũng... "một trời một vực"! Thế nhưng, cho đến nay, ngay cảcác nhà khoa học làm việc tại lục địa Trung Hoa, Hong Kong, Macao, Đài Loan cũng chưa từng có ai giành được giải Nobel, huy chương Fields! Huống chi người Việt Nam ta làm việc ở trong nước! Vào thờiđiểm này mà đặt câu hỏi tại sao các nhà khoa học Việt Nam ở trong nước chưa ai giành được giải Nobel, huy chương Fields, thì cũng chẳng khác nào ngơ ngác hỏi: Tại sao ta chưa có một doanh nhân nàogiàu như Bill Gates? Chẳng lẽ quên tài sản của tập đoàn Bill Gates có lúc đã lên tới 70 tỉ USD trong khi GDP nước ta gần đây mới đạt... 45 tỉ USD!

Ở Philippines, người nghiên cứu sinh, khi viết luận án tiến sĩ, ít nhất phải có một công trình công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín (được ISI lựa chọn); trong khi ở nước ta, nhiều vị giáo sư, tiến sĩ chưa hề có một công trình nào như vậy. Khi nói đến thành tích khoa học và công nghệ (hay R & D), các cơ quan quản lý khoa học của ta thường nêu lên số giáo sư, tiến sĩ ở Việt Nam đông nhất Đông Nam Á, nhưng lại không đả động gì đến các kết quả nghiên cứu của họ (theo tiêu chí quốc tế). Nhà vật lý Đặng Mộng Lân nhận xét, làm như vậy thì có khác nào nói đến thành tựu phát triển kinh tế mà chỉ kể ra số dân đông đúc, nhưng lại không hề nhắc đến mức GDP quá ư... "khiêm tốn"!

Và "tuấn kiệt" vẫn "như sao buổi sớm"

Chúng ta rất mừng khi thấy một vài nhà khoa học Việt Nam như giáo Hoàng Tuỵ, giáo sư Ngô Việt Trung có nhiều công trình đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín cao.

Nhưng, đáng tiếc, một số nhà khoa học Việt Nam khác, làm việc ở trong nước, suốt thập kỷ vừa qua, cũng có số công trình đáng kể in trên các tạp chí quốc tế, được ISI ghi nhận, nhưng tên tuổi hầu như chẳng được xã hội ta chú ý: Phạm Duy Hiển, Nguyễn Bá Ân, Đoàn Nhật Quang, Hoàng Ngọc Long, Trần Thoại Duy Bảo, Nguyễn Quốc Thắng...

Trong khi đó có người tự coi mình là nhà toán học ngang tầm Lobatchevsky, được lăng-xê trên một số tờ báo là "một trong 500 nhân vật hàng đầu thế kỷ 20", "thiên tài lỗi lạc thế kỷ 21" nhưng, theo giáo sư Nguyễn Tiến Dũng ở Đại học Toulouse (Pháp), thì "công trình" của vị "danh nhân" ấy chẳng được ai trên thế giới quan tâm! Lại thêm những người hầu như chẳng có một bài báo nào được in trên các tạp chí khoa học quốc tế (loại có uy tín cao), được đồng nghiệp trích dẫn nhiều lần, nhưng nhờ có "tài ngoại giao" vẫn kiếm được chân "viện sĩ" của một "viện hàn lâm vườn" - chữ của giáo sư Dũng - nào đó, rồi ung dung xuất hiện trên báo, đài với danh hiệu viện sĩ X, viện sĩ Y... làm cho tình hình "vinh danh" các nhà khoa học ở nước ta càng thêm hỗn độn, vàng thau lẫn lộn, thật giả nhập nhằng, thậm chí "cò gỗ mổ cò thật"! Thật ra, chữ academy có nhiều nghĩa, khi thì chỉ trường trung cấp dạy nghề (như hairstyle academy), khi thì chỉ hội khoa học (như New York Academy of science)...

Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu

Viện sĩ
Nguyễn Văn Hiệu

Tất nhiên, ta rất trân trọng các viện hàn lâm đích thực, có uy tín lớn như Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm khoa học Pháp, v.v... Và gầngũi với ta hơn là Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba mà chúng ta hiện có 7 viện sĩ được cộng đồng khoa học quốc tế bầu chọn hẳn hoi (chứ không phải nộp tiền, ghi tên): Nguyễn Văn Hiệu, Đào VọngĐức, Lê Dũng Tráng, Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Văn Đạo, Ngô Việt Trung, Hà Huy Khoái.

Trừ một vài ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi trong lịch sử hiện đại như Albert Einstein thời trẻ (làm khoa học gần như "nghiệp dư", không nhận được một khoản tài trợ nào, mà vẫn sáng tạo nên công trình "động trời": Thuyết tương đối), còn thì nói chung, nghiên cứu khoa học là công việc rất tốn kém. Muốn có nhiều công trình đạt trình độ quốc tế ở đầu ra (output) thì phải đổ nhiều tiền nơi đầu vào (input). Theo tiến sĩ khoa học Nguyễn Tiến Dũng, người từng đoạt huy chương vàng Olympic toán quốc tế tại Helsinki (Phần Lan) khi mới 14 tuổi rưỡi, nay là giáo sư Đại học Toulouse, thì "giá thành" một bài báo toán được in trên một tạp chí khoa học quốc tế (có phản biện nghiêm túc) bằng giá một chiếc ô tô! Nghĩa là trung bình phải "bỏ vốn" khoảng 20.000 - 50.000 USD (trả lương cho nhà toán học và các chi phí khác) mới "sản xuất" ra được một công trình toán học! "Giá thành" một công trình vật lý, hoá học, sinh lý học/y học còn cao hơn nhiều, do phải sử dụng nhiều thiết bị hết sức đắt tiền. Trong lần đến thăm Genève và Fermilab, tôi đã thấy những cỗ máy gia tốc hạt electron - phản electron, proton - phản proton trị giá nhiều tỉ USD. Mới đây, đến thăm Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ gen ở Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam, tôi cũng thấy những chiếc máy cực kỳ tinh vi của Mỹ, chỉ nhỏ bằng cái nồi cơm điện, nhưng giá hàng tỉ đồng Việt Nam. Nếu thiếu những thiết bị tối tân giá tổng cộng khoảng 50 tỉ đồng, thì phòng thí nghiệm này khó nghiên cứu nổi virus cúm gia cầm để xây dựng nên một quy trình điều chế vắc-xin chống cúm, rồi phổ biến cho các viện và các công ty thuốc thú y sản xuất đại trà.

Chỉ có bộ óc thông minh không thôi, chưa đủ! Còn phải có nhiều tiền thì mới mong làm khoa học và công nghệ trong thời hiện đại! Ở các nước tiên tiến, số tiền nhà nước đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chiếm khoảng 2-3% GDP; ở Trung Quốc chiếm gần 2% GDP. Còn ở nước ta? Con số đó mới vào khoảng 2% tổng ngân sách nhà nước; nhưng tổng ngân sách nhà nước ở ta chỉ chiếm một phần nhỏ GDP.

Đàm Thanh Sơn

Đàm Thanh Sơn

Tuy nhiên, rót tiền vào khoa học và công nghệ không có nghĩa chỉ là tăng lương cho một số nhà khoa học lên mức một vài nghìn USD. Không nhất thiết phải biến nhà khoa học thành kẻ "xài sang"trong khi mức sống của cán bộ - kể cả những tài năng ở nhiều lĩnh vực khác - và nhân dân nói chung còn thấp. Thật ra, người làm khoa học cũng chỉ mong sao được hưởng một mức lương đủ để khỏi phảibươn chải kiếm sống, khỏi phải làm những công việc trái khoáy, nhằm dồn hết tâm trí và thời gian cho khoa học. Điều mà họ cần hơn là điều kiện, phương tiện làm việc hiện đại, và môi trường nghiên cứunghiêm túc.

Tôi không có ý định phác ra một bức tranh ảm đạm về tình hình nghiên cứu khoa học và công nghệ ở nước ta. Chúng ta đang có nhiều nhà khoa học trẻ đầy tài năng - nhất là trong lĩnh vực toán học và vật lý lý thuyết - ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cùng đông đảo các em học sinh, sinh viên giỏi. Vấn đề là làm sao tạo ra được những điều kiện tốt nhất để họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo. Muốn thế, phải có những đổi mới mang tính cách mạng - mạnh mẽ nhưng thận trọng - trong giáo dục và đào tạo cũng như trong khoa học và công nghệ để ngày càng hội nhập sâu hơn vào "sân chơi quốc tế". Được vậy thì biết đâu đấy, trong một vài thập kỷ tới, chẳng có một vài người Việt Nam xuất chúng vươn tới những đỉnh cao khoa học như giải thưởng Nobel hay huy chương Fields? Tất nhiên, chỉ nên hy vọng một cách dè dặt, rất dè dặt...

Nguồn: Khám phá số 25, ngày 20/3/2006

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…