Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 25/03/2006 00:13 (GMT+7)

Nobel phải chăng còn xa vời?

Ngoại lực trong khoa học

Đã có một số nhà bác học sinh ra ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Venezuela, Argentina... được tặng giải Nobel về các ngành khoa học tự nhiên như vật lý, hoá học, sinh lý học/ y học hay huy chương Fields về toán học (chúng tôi không đề cập đến các giải Nobel văn chương và hoà bình, bởi lẽ nhiều trường hợp các giải này bị ảnh hưởng bởi nhãn quan chính trị của những người nắm quyền lựa chọn, trao tặng giải, nên gây ra tranh cãi gay gắt).

Nhưng, đến tuổi trưởng thành, hầu hết những người lỗi lạc nói trên đều được đào tạo nghiêm ngặt, với chất lượng rất cao, tại các trường đại học đẳng cấp quốc tế ở Mỹ, Anh; bảo vệ luận án tiến sĩ, rồi tiếp tục công việc nghiên cứu ở các nước đó, trong những phòng thí nghiệm hiện đại nhất, giữa môi trường khoa học tiên tiến bậc nhất. Việc họ giành được giải Nobel hay huy chương Fields rõ ràng một phần nào - nếu không muốn nói là phần lớn - nhờ vào "ngoại lực".

Năm 1957, lần đầu tiên hai nhà vật lý gốc Trung Quốc Chen Ning Yang (Dương Chấn Ninh) và Tsung-Dao Lee (Lý Chính Đạo) được tặng giải Nobel khi mới 35 tuổi và 31 tuổi, vì đã khám phá ra sự không bảo toàn tính chẵn lẻ trong tương tác yếu.

Hai ông đã học tập và nghiên cứu trong môi trường nào?

Chen Ning Yang

Chen Ning Yang

Dương Chấn Ninh sinh năm 1922 tại Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc, học đại học tại Côn Minh, nhưng sau đó, năm 1942, sang học tiếp tại Đại học Chicago, rồi bảo vệ luận án tiến sĩ tại đây năm1948, khi mới 26 tuổi.

Ông là giáo sư Đại học Quốc gia New York tại Stony Brook, là viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, viện sĩ Viện Hoàng gia Anh, kiêm cả tiến sĩ khoa học danh dự Đại học Lomonosov (Nga)...

Còn Lý Chính Đạo thì sao? Ông sinh tại Thượng Hải năm 1926, nhưng sang Mỹ học Đại học Chicago, bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1950, khi mới 24 tuổi, giảng dạy và nghiên cứu tại nhiều trường đại học hàng đầu của Mỹ như Princeton, Harvard, Columbia..., trở thành giáo sư năm 30 tuổi rồi thành viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ...

Một nhà vật lý được tặng giải Nobel rất quen thuộc với giới khoa học nước ta là Abdus Salam, người sáng lập và giữ chức chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba trong nhiều năm. Ông sinh tại Jhang, Pakistan năm 1926, học trung học tại Lahore, nhưng sau đó, sang Anh học Đại học Cambridge - nơi các nhà vật lý lừng danh như I. Newton, P. Dirac từng làm việc bảo vệ luận án tiến sĩ năm 26 tuổi, trở thành giáo sư Đại học Cambridge, được tặng giải thưởng Nobel năm 1979 vì đã cùng S. Glashow (Mỹ) và S. Weinberg (Mỹ) thống nhất tương tác điện từ; tương tác yếu thành tương tác điện-yếu.

Tsung Dao Lee

Tsung Dao Lee

Có thể điểm thêm vài ba trường hợp khác sinh ra trên những "mảnh đất cằn cỗi" song lại thành công rực rỡ. Subrahmanyan Chandrasekhar được tặng giải Nobel về vật lý và Har Gobind Khorana, giảithưởng Nobel về sinh lý học/ y học, đều là người Ấn Độ. Thế nhưng, cả hai ông đều giảng dạy và nghiên cứu tại những trung tâm khoa học nổi tiếng của Mỹ như Viện Erico Fermi, Viện Công nghệMassachusetts (MIT)...

Và César Milstein, người Argentina, sinh tại Bahia Blanca, nhưng bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Cambridge (Anh), viện sĩ Viện Hoàng gia Anh, rồi được tặng giải Nobel về sinh lý học/ y học năm 1984, do các kết quả nghiên cứu tại Anh. Còn Baruj Benacerraf, người Venezuela, sinh tại Caracas, nhưng học đại học và làm việc tại Pháp, Mỹ; là viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, được tặng giải Nobel về sinh lý học/ y học năm 1980 khi đang dạy Đại học Harvard.

Quả thật, nếu chỉ được đào tạo và nghiên cứu trên "mảnh đất cằn cỗi" ở quê hương mình, chỉ hoàn toàn dựa vào "nội lực" của nước mình, thì những bộ óc thông minh xuất chúng kể trên khó có thể phát huy hết tiềm năng để vươn tới những đỉnh cao chót vót như giải thưởng Nobel, huy chương Fields.

Với người Việt, có lẽ cũng khó có ngoại lệ

Khi "nhân tài như lá mùa thu"

Subrahmanyan Chandrasekhar

Subrahmanyan Chandrasekhar

Vậy "nội lực" của nền khoa học nước ta hiện ra sao? Việc giành được giải Nobel hay huy chương Fields phụ thuộc vào sự lớn mạnh của cả một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học và công nghệ ởtrình độ cao, trên cơ sở một nền kinh tế phát triển, một nền khoa học cơ bản tiên tiến của cả một đất nước, chứ không phải những cố gắng lẻ loi, đơn thương độc mã của dăm ba "chàng kỵ sĩ" cưỡi ngựatrên hoang mạc gọi là "khoa học"!

Theo báo cáo hằng năm của Liên Hiệp Quốc về chỉ số sáng tạo (innovation index), Việt Nam xếp thứ 82/117 nước, nằm trong nhóm các nước yếu kém, đứng sau nhóm các nước có trình độ cao và nhóm các nước dừng ở mức trung bình.

Giải thưởng Nobel, huy chương Fields chỉ trao cho những thành tựu khoa học kiệt xuất trên cái nền nghiên cứu cơ bản hùng mạnh. Cái "nền" đó được "xây đắp" trước tiên trên số lượng và chất lượng các bài báo khoa học (scientific article) được đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín và số lần mỗi bài báo được đồng nghiệp trích dẫn.

Sau đó, các chuyên gia mới phân tích sâu thêm để đưa ra kết luận cuối cùng. Viện Thông tin khoa học (Institute of Scientific Information, ISI) có trụ sở tại Philadelphia (Mỹ) - một trung tâm thông tin khoa học được cộng đồng quốc tế tin cậy - qua khảo sát 5.969 tạp chí trên thế giới về hàng trăm chuyên ngành khoa học, công nghệ, xã hội - nhân văn, nghiên cứu nghệ thuật, đã vẽ nên một bức tranh, tuy chưa thể coi là chính xác 100%, nhưng đã khá hoàn chỉnh về một nền khoa học hiện đại.

Hằng năm, trên thế giới công bố khoảng 800.000 bài báo khoa học, trong số đó Mỹ chiếm 300.000 bài, Nhật Bản 75.000, Đức 66.000, Anh 59.000, Trung Quốc 57.000, Pháp 47.000... Còn Việt Nam? Trung bình hằng năm chỉ được đăng khoảng 200 - 450 bài! Thế mà trong con số ít ỏi ấy, 3/4 lại là những bài mà người Việt Nam là đồng tác giả với người nước ngoài! Chỉ có 1/4, tức khoảng 80 bài, là hoàn toàn của người Việt Nam, được thực hiện chủ yếu bằng "nội lực".

Ngô Bảo Châu

Ngô Bảo Châu

Chỉ cần xem lướt mấy con số nói trên, ta đã có thể lý giải vì sao Mỹ là nước giành được nhiều giải thưởng Nobel, huy chương Fields nhất thế giới. Từ 300.000 công trình của Mỹ, rõ ràng dễ tìmra vài ba công trình thật xuất sắc xứng đáng với giải thưởng Nobel, huy chương Fields hơn là từ con số vẻn vẹn 80 công trình của các tác giả Việt Nam ở trong nước! Thôi, đừng nên so sánh với một siêucường khoa học như Mỹ nữa! Hãy so sánh "nội lực" nghiên cứu khoa học của Trung Quốc với ta thì, qua mấy con số nói trên của ISI, tình hình cũng... "một trời một vực"! Thế nhưng, cho đến nay, ngay cảcác nhà khoa học làm việc tại lục địa Trung Hoa, Hong Kong, Macao, Đài Loan cũng chưa từng có ai giành được giải Nobel, huy chương Fields! Huống chi người Việt Nam ta làm việc ở trong nước! Vào thờiđiểm này mà đặt câu hỏi tại sao các nhà khoa học Việt Nam ở trong nước chưa ai giành được giải Nobel, huy chương Fields, thì cũng chẳng khác nào ngơ ngác hỏi: Tại sao ta chưa có một doanh nhân nàogiàu như Bill Gates? Chẳng lẽ quên tài sản của tập đoàn Bill Gates có lúc đã lên tới 70 tỉ USD trong khi GDP nước ta gần đây mới đạt... 45 tỉ USD!

Ở Philippines, người nghiên cứu sinh, khi viết luận án tiến sĩ, ít nhất phải có một công trình công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín (được ISI lựa chọn); trong khi ở nước ta, nhiều vị giáo sư, tiến sĩ chưa hề có một công trình nào như vậy. Khi nói đến thành tích khoa học và công nghệ (hay R & D), các cơ quan quản lý khoa học của ta thường nêu lên số giáo sư, tiến sĩ ở Việt Nam đông nhất Đông Nam Á, nhưng lại không đả động gì đến các kết quả nghiên cứu của họ (theo tiêu chí quốc tế). Nhà vật lý Đặng Mộng Lân nhận xét, làm như vậy thì có khác nào nói đến thành tựu phát triển kinh tế mà chỉ kể ra số dân đông đúc, nhưng lại không hề nhắc đến mức GDP quá ư... "khiêm tốn"!

Và "tuấn kiệt" vẫn "như sao buổi sớm"

Chúng ta rất mừng khi thấy một vài nhà khoa học Việt Nam như giáo Hoàng Tuỵ, giáo sư Ngô Việt Trung có nhiều công trình đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín cao.

Nhưng, đáng tiếc, một số nhà khoa học Việt Nam khác, làm việc ở trong nước, suốt thập kỷ vừa qua, cũng có số công trình đáng kể in trên các tạp chí quốc tế, được ISI ghi nhận, nhưng tên tuổi hầu như chẳng được xã hội ta chú ý: Phạm Duy Hiển, Nguyễn Bá Ân, Đoàn Nhật Quang, Hoàng Ngọc Long, Trần Thoại Duy Bảo, Nguyễn Quốc Thắng...

Trong khi đó có người tự coi mình là nhà toán học ngang tầm Lobatchevsky, được lăng-xê trên một số tờ báo là "một trong 500 nhân vật hàng đầu thế kỷ 20", "thiên tài lỗi lạc thế kỷ 21" nhưng, theo giáo sư Nguyễn Tiến Dũng ở Đại học Toulouse (Pháp), thì "công trình" của vị "danh nhân" ấy chẳng được ai trên thế giới quan tâm! Lại thêm những người hầu như chẳng có một bài báo nào được in trên các tạp chí khoa học quốc tế (loại có uy tín cao), được đồng nghiệp trích dẫn nhiều lần, nhưng nhờ có "tài ngoại giao" vẫn kiếm được chân "viện sĩ" của một "viện hàn lâm vườn" - chữ của giáo sư Dũng - nào đó, rồi ung dung xuất hiện trên báo, đài với danh hiệu viện sĩ X, viện sĩ Y... làm cho tình hình "vinh danh" các nhà khoa học ở nước ta càng thêm hỗn độn, vàng thau lẫn lộn, thật giả nhập nhằng, thậm chí "cò gỗ mổ cò thật"! Thật ra, chữ academy có nhiều nghĩa, khi thì chỉ trường trung cấp dạy nghề (như hairstyle academy), khi thì chỉ hội khoa học (như New York Academy of science)...

Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu

Viện sĩ
Nguyễn Văn Hiệu

Tất nhiên, ta rất trân trọng các viện hàn lâm đích thực, có uy tín lớn như Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm khoa học Pháp, v.v... Và gầngũi với ta hơn là Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ ba mà chúng ta hiện có 7 viện sĩ được cộng đồng khoa học quốc tế bầu chọn hẳn hoi (chứ không phải nộp tiền, ghi tên): Nguyễn Văn Hiệu, Đào VọngĐức, Lê Dũng Tráng, Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Văn Đạo, Ngô Việt Trung, Hà Huy Khoái.

Trừ một vài ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi trong lịch sử hiện đại như Albert Einstein thời trẻ (làm khoa học gần như "nghiệp dư", không nhận được một khoản tài trợ nào, mà vẫn sáng tạo nên công trình "động trời": Thuyết tương đối), còn thì nói chung, nghiên cứu khoa học là công việc rất tốn kém. Muốn có nhiều công trình đạt trình độ quốc tế ở đầu ra (output) thì phải đổ nhiều tiền nơi đầu vào (input). Theo tiến sĩ khoa học Nguyễn Tiến Dũng, người từng đoạt huy chương vàng Olympic toán quốc tế tại Helsinki (Phần Lan) khi mới 14 tuổi rưỡi, nay là giáo sư Đại học Toulouse, thì "giá thành" một bài báo toán được in trên một tạp chí khoa học quốc tế (có phản biện nghiêm túc) bằng giá một chiếc ô tô! Nghĩa là trung bình phải "bỏ vốn" khoảng 20.000 - 50.000 USD (trả lương cho nhà toán học và các chi phí khác) mới "sản xuất" ra được một công trình toán học! "Giá thành" một công trình vật lý, hoá học, sinh lý học/y học còn cao hơn nhiều, do phải sử dụng nhiều thiết bị hết sức đắt tiền. Trong lần đến thăm Genève và Fermilab, tôi đã thấy những cỗ máy gia tốc hạt electron - phản electron, proton - phản proton trị giá nhiều tỉ USD. Mới đây, đến thăm Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ gen ở Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam, tôi cũng thấy những chiếc máy cực kỳ tinh vi của Mỹ, chỉ nhỏ bằng cái nồi cơm điện, nhưng giá hàng tỉ đồng Việt Nam. Nếu thiếu những thiết bị tối tân giá tổng cộng khoảng 50 tỉ đồng, thì phòng thí nghiệm này khó nghiên cứu nổi virus cúm gia cầm để xây dựng nên một quy trình điều chế vắc-xin chống cúm, rồi phổ biến cho các viện và các công ty thuốc thú y sản xuất đại trà.

Chỉ có bộ óc thông minh không thôi, chưa đủ! Còn phải có nhiều tiền thì mới mong làm khoa học và công nghệ trong thời hiện đại! Ở các nước tiên tiến, số tiền nhà nước đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chiếm khoảng 2-3% GDP; ở Trung Quốc chiếm gần 2% GDP. Còn ở nước ta? Con số đó mới vào khoảng 2% tổng ngân sách nhà nước; nhưng tổng ngân sách nhà nước ở ta chỉ chiếm một phần nhỏ GDP.

Đàm Thanh Sơn

Đàm Thanh Sơn

Tuy nhiên, rót tiền vào khoa học và công nghệ không có nghĩa chỉ là tăng lương cho một số nhà khoa học lên mức một vài nghìn USD. Không nhất thiết phải biến nhà khoa học thành kẻ "xài sang"trong khi mức sống của cán bộ - kể cả những tài năng ở nhiều lĩnh vực khác - và nhân dân nói chung còn thấp. Thật ra, người làm khoa học cũng chỉ mong sao được hưởng một mức lương đủ để khỏi phảibươn chải kiếm sống, khỏi phải làm những công việc trái khoáy, nhằm dồn hết tâm trí và thời gian cho khoa học. Điều mà họ cần hơn là điều kiện, phương tiện làm việc hiện đại, và môi trường nghiên cứunghiêm túc.

Tôi không có ý định phác ra một bức tranh ảm đạm về tình hình nghiên cứu khoa học và công nghệ ở nước ta. Chúng ta đang có nhiều nhà khoa học trẻ đầy tài năng - nhất là trong lĩnh vực toán học và vật lý lý thuyết - ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cùng đông đảo các em học sinh, sinh viên giỏi. Vấn đề là làm sao tạo ra được những điều kiện tốt nhất để họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo. Muốn thế, phải có những đổi mới mang tính cách mạng - mạnh mẽ nhưng thận trọng - trong giáo dục và đào tạo cũng như trong khoa học và công nghệ để ngày càng hội nhập sâu hơn vào "sân chơi quốc tế". Được vậy thì biết đâu đấy, trong một vài thập kỷ tới, chẳng có một vài người Việt Nam xuất chúng vươn tới những đỉnh cao khoa học như giải thưởng Nobel hay huy chương Fields? Tất nhiên, chỉ nên hy vọng một cách dè dặt, rất dè dặt...

Nguồn: Khám phá số 25, ngày 20/3/2006

Xem Thêm

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Quảng Ngãi: Tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả cho hợp tác xã
Sáng ngày 26/11, tại thành phố Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học tư vấn phản biện “Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2025 – 2030”.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…

Tin mới

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Bộ TT&TT làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết việc thực hiện Quyết định số 362/QĐ-TTG
Chiều ngày 27/11, tại trụ sở LHHVN, Đoàn công tác của Bộ TT&TT đã có buổi làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết Quyết định số 362/QĐ-TTG ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương và Phó Chủ tịch LHHVN Phạm Ngọc Linh chủ trì buổi làm việc.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.