Lễ tục cưới xin trong xã hội cổ truyền Thái đen (Tiếp theo và hết)
Tổ chức uống rượu cần và ăn tiệc
Những người phục vụ bắt đầu đặt “cỗ bàn lớn” ( pan khảu luông) và các “cỗ bàn nhỏ ( pan khảu nọi). “Cỗ bàn lớn” dành cho ba họ phía nhà gài, các vị bô lão và chức sắc trong bản mường. “Cỗ bàn nhỏ” dành cho những người thuộc hàng rể (nhà trai) và lớp trẻ đã hoặc chưa lập gia đình. Mâm cỗ Thái bày theo chiều dài của lòng nhà, không quy định là bao nhiêu.
Trong khi những người phục vụ bày tiệc thì mối nhà trai mời họ hàng phía nhà gái vào tiệc rượu cần. Những tiệc cưới đầy đủ, nhà trai phải có một chum rượu lớn cắm bảy cần và ba chum nhỏ, mỗi chum cắm năm cần. Chum lớn dành cho những người bề trên trong họ hàng nhà gái, các già làng và chức sắc bản mường. Chum nhỏ dành cho nhà trai và bà con hàng xóm láng giềng.
Vào cuộc, mối cử cho mỗi chum rượu một vị có chức năng gọi là cóng lảu(người chuyên rót - hầu rượu). Vị này cầm chiếc sừng bò tót hoặc sừng trâu có dùi lỗ thoát nước phía đầu nhọn nhỏ bằng đầu đũa. Khi mọi người vào vít cần chuẩn bị chầu rượu, cóng múc nước đầu sừng và dùng ngón tay trỏ điều độ ở lỗ thoát nước dâng sẵn lên miệng chum. Cóng được quyền ra hạn cho mỗi tốp vào cuộc rượu, một chầu sẽ phải cạn hết mấy sừng. Nếu không cả tốp sẽ bị phạt bằng cách phải uống thêm. Cóng cất bài hát mời rượu ( mơi lảu) rồi mở ngón trỏ để tiếp nước vào chum, mọi người vít cần hút. Không kể nam nữ, trẻ già đến dự đám cưới đều phải qua ba lần hút rượu. Mỗi lần hết chầu, cóng hét to: “ Khát” (dứt) và theo sau là những lời chúc tụng hò reo trong không khí chan hoà.
Khi bàn tiệc đã bày xong thì cuộc vui rượu cần tạm lắng xuống. Ông bà nhạc cùng mối lái hai bên mời mọi người vào tiệc mặn, và ngồi theo thứ tự, như tập quán xưa nay. Nửa phía quản, mé trên là chỗ ngồi thứ tự của những bậc bề trên trong dòng họ của nhà gái, các vị cao niên, già làng và chức sắc ở bản mường. Người thân sinh của nhạc phụ sẽ ngồi ở vị trí giữa “bàn tiệc”.
Bàn tiệc do ông bà nhạc chủ trì gọi là “chủ nhà” ( chảu hươn). Ngồi mé dưới là người thuộc họ nhà trai, có ông mối thay mặt gọi là “chủ rượu” ( chảu lảu). Tục ngữ Thái có câu: “Chủ nhà dẫn ăn, chủ rượu dẫn uống” ( Chảu hươn pa khảu, chảu lảu pa kin). Nửa phía chan cũng xếp theo thứ tự trên dưới tương tự, nhưng dành cho bà nhạc và tất cả nữ giới. Các mâm cỗ nhỏ cũng ngồi theo thứ bậc gia đình và xã hội như vậy.
Tục dẫn rể và phù rể phục lễ họ nhà gái
Khi mọi người đã an toạ tại các vị trí ở bàn tiệc, chàng rể và phù rể, gọi chung là “đoàn con rể” ( chủm mú lụk khươi) do ông mối (bên nhà trai) dẫn ra đứng thành hàng ngang. Họ đều chắp tay về phía trước, nghiêm trang hướng về mâm cỗ lớn chuẩn bị làm lễ phủ phục lung ta và bản mường. Đầu tiên mối cao giọng xin phép để phận làm rể ra mắt, rồi cho cả đoàn cùng quỳ phủ phục lạy một lễ. Tiếp đến, mối xướng bài: “Kể đường dâu gia” ( Cái puông hặc puông chaư) trong khoảng 15-20 phút. Mọi người dự tiệc đều phải lắng nghe. Dứt lời, mối cho “đoàn con rể” quỳ phủ phục lạy họ nhà gái và bản mường 5 lễ. Đến lượt ông mối bên nhà gái cất cao giọng xướng đáp lại theo bài “Nhận lời nối đường dâu gia” ( Cái tang hặc tang chaư). Ông mối bên nhà trai lại cho “đoàn con rể” lạy thêm lượt nữa.
Ở cư dân Thái ai làm con rể cũng phải phủ phục lạy họ tộc nhà gái 7 lượt lễ. Tập tục này liên quan đến tâm linh thờ phụng tổ tiên ở mỗi cộng đồng gồm “họ bảy lớp” ( vả chết chặn hay một đẳm) tương ứng với bảy đời trước và sau bản thân mình. Những người cùng thế hệ với mình gọi nhau là ải noọng.
Lệ mừng đám cưới
Lễ dẫn rể ra mắt và lạy họ tộc nhà gái kết thúc, chủ nhà và chủ rượu dẫn mọi người vào cuộc vui, mừng cho đôi tân hôn. Điểm nổi bật ở tiệc cưới là cái thú vui uống rượu với “luật rượu” nghiêm ngặt vốn có từ xưa.
Trong tiệc, rượu phải uống hết mình, nhưng không được say để bị chê cười. Nếu ai đó quá chén, mọi người cũng không được khích bác, chê trách, mắng mỏ… mà phải có người dìu dắt về nhà nghỉ ngơi.
Rượu uống trong các lễ tục Thái theo hai hình thức. Một là, chủ rượu (cóng) mời. Mọi người quanh mâm hai hàng trên dưới nhất loạt nâng và cạn chén hết lượt này đến lượt khác sau những lời chúc tụng, chào mời hoặc sau một khúc hát của nghệ nhân dân gian… Cách uống này gọi là “tửu đồng loạt” ( lảu pay). Hai là, uống “rượu đôi” ( lảu đôi) để chúc tụng ai đó. Trong tiệc cưới, người được phía nhà trai chúc “rượu đôi” đầu tiên là thân phụ ông nhạc rồi đến những thành viên trong dòng tộc nhà gái. Tiếp đó là các già làng và chức sắc bản mường đều được chủ rượu mời mỗi người đôi rượu. Vui trong ăn uống, “rượu đôi” còn là trò tiêu khiển như muốn trêu ghẹo ai, “bắt phạt” ai cũng gửi đôi rượu làm cho không khí thêm phấn chấn. Khi cuộc liên hoan đạt tới đỉnh cao thì sẽ có một nghệ nhân dân gian, thường là nam giới, cất cao giọng hát để mọi người hò theo. Theo nền nếp của đám cưới Thái thì khúc ca đầu tiên thường là bản tình ca Xống chụ xon xao(Tiễn dặn người yêu) nổi tiếng. Tiếp đó, nam, nữ hát khúc ca “Khen ngợi nàng dâu, chàng rể” ( Khắp xưng pạư xưng khươi); rồi chuyển sang lối hát đối đáp “xuất khẩu thành thơ” giữa một giọng ca nam, đại diện cho phía chàng rể, với một giọng ca nữ - thay mặt cho nàng dâu.
Cùng với hát đối đáp bên mâm cỗ, người ta còn thấy phía quảnvà phía channhịp nhàng tiếng chiêng, tiếng trống làm nền cho một điệu xoè vòng. Cuộc vui như thế cứ diễn ra suốt ngày thâu đêm.
Lệ ăn “bữa đầu” (ngai hua) và nàng dâu về thăm nhà chồng (nhăm tát hươn)
Sáng hôm sau, người ta hâm lại các món ăn, bầy lại mâm cỗ để mọi người vào dự “bữa đầu” ( ngai hua). Gọi là “bữa đầu” vì đây mới là bữa ăn chung đầu tiên của đôi tân hôn. Trong khi mọi người đương vui vẻ cỗ bàn, người hát kẻ hò thì ông mối nhà trai dẫn đôi tân hôn cùng đoàn phù rể vào xin phép ông bà nhạc cùng họ nhà gái đi thăm nhà bố mẹ chồng ( nhăm tát hươn). Nàng dâu lúc này vận lễ phục áo dài đen chàm, đầu đội khăn piêu mới, do mối nhà gái dẫn theo mối nhà trai và đoàn phù dâu ra khỏi nhà.
Khi tới chân cầu thang nhà bố mẹ chồng thì thấy xuất hiện hai người đàn bà đem sải vải thổ cẩm ( khít) chùm lên đầu che mặt và dắt nàng dâu vào nhà. Bỏ tấm thổ cẩm ra, nàng dâu ngồi trệt xuống mặt sàn, chắp tay phục lễ bố, mẹ và các bậc cao niên của họ tộc bên chồng. Mẹ chồng đến sát và nâng cánh tay nàng dâu đứng dậy rồi đưa đến chỗ nghỉ ở phía chan. Tiệc lớn ở đây lại tiếp tục diễn ra. Rượu cần mở, rượu cất rót, “chủ nhà, chủ rượu” lại mời bà con cô bác trong, ngoài họ hàng, các già làng, chức sắc cùng dự cuộc vui. Mối nhà gái dẫn “đoàn nàng dâu” làm thủ tục: xướng bài “Đưa dâu đón nàng” ( Xống pạư tỏn nang), mối nhà trai xướng đáp bài “Nhận nàng đón dâu” ( Hặp pạư hặp nang). “Đoàn nàng dâu” cùng ngồi bệt xuống sàn chắp tay cúi đầu lạy 7 lần bố mẹ chồng và họ tộc trong khối ải noọng. Lần này dâu về thăm nhà chưa phải làm lệ biếu xén. Tiệc đón dâu cũng diễn ra và kết thúc tương tự lễ ra mắt nhà gái của chàng rể. Đôi tân hôn có thể ở nhà nội dăm bữa mươi ngày rồi tự trở lại nhà ngoại để chàng trai bắt đầu ở rể ( khươi mia).
Tục ở rể (khươi mia)
Theo lệ xưa, con trai lấy vợ ở dòng họ bình dân phải làm rể 8 năm. Còn nếu lấy con gái nhà quý tộc (nàng hoặc người hầu) ở rể 12 năm. Đây là thời gian nhọc nhằn nhất của người con trai, trước năm 1954, ở rể đồng nghĩa với sự nhẫn nhục, cần cù, giờ không ngưng tay, tháng chẳng nghỉ, năm chẳng ngơi, thức khuya dậy sớm, dốc sức làm ra của cải để nuôi bố mẹ vợ và gia đình. Tuy nhiên, thời gian ở rể đàn ông Thái tự nhiên được tu chí, rèn luyện, để trở thành con người chuẩn mực của làng bản đương thời. Nếu ở rể đủ 3 năm trở lên, có thể nhờ ông mối sang đặt tiệc gọi là “đôi rượu – đôi gà” ( đôi lảu đôi cáy), để xin làm lễ đón dâu tại nhà. Nếu nhà gái ưng thuận thì thời gian còn lại (5 hoặc 9 năm) được hiểu là chàng rể vẫn còn “mang nợ”. Do đó có tục gọi là “xin nuôi” ( xin liệng), quy định mỗi năm nhà trai phải “trả nợ” nhà gái ít nhất 3 gánh bung 5 yến (tức 15 yến Thái, tương đương 450kg thóc. Sau 5 năm nhà trai phải trả 2.250kg thóc. Nhưng tối đa nhà gái không được đòi quá 5 gánh bung 5 yến, tức là 25 yến (quy thành 750kg x 5 năm = 4.050 kg). Thoả thuận là vậy, nhưng không bao giờ nhà gái lại đòi trả đủ. Do vậy, năm đầu nhà trai thường đem của “xin nuôi” vượt mức tối thiếu (3 gánh) thành 6 ghánh, còn 4 năm sau có thể bỏ qua.
Tục “cưới xuống” (téng đong lông)
Kết thúc thời gian ở rể, tìm được ngày lành tháng tốt, nhà trai sắm đủ gạo, thịt, rượu, cho đoàn mối sang tổ chức bữa tiệc lớn – “cưới xuống” ( téng đong lông) để đưa nàng dâu về nhà chồng (nhà mới của cô) nên còn gọi tục này là “lại nhà” ( ma hươn).
Trong những năm chồng ở rể, phận làm vợ phải cố gắng làm ra thật nhiều bông, sợi, vải vóc, tơ lụa… vừa để tạo lập cơ ngơi của một gia đình mới (như: chăn, màn, gối, đệm, rèm cửa…), vừa để làm quà tặng cho họ tộc nhà chồng (như: quần áo, khăn, gối, đệm…) theo phong tục Thái, lại vừa phải lo liệu dần cho tương lai: quần áo và tiện nghi phòng ngủ đủ cho chồng con, tiện nghi phòng khách cho anh em, bằng hữu khi tới nhà. Không chỉ lo vải vóc cho lúc sống mà lâu dài, còn phải lo cho cả lúc trong nhà có người nhắm mắt xuôi tay. Đó là một chuẩn mực để trở thành bà chủ nóc nhà riêng ở trong bản trong mường.
Khi bước chân về nhà chồng, lệ biếu tặng thông thường của nàng dâu là: Với bố mẹ chồng mỗi người một bộ lễ phục đen, có sải khăn thâm và sải piêu cùng với hai tấm đệm, chăn, đôi gối mới. Với các vị là anh chị em của bố chồng thì mỗi người một đôi gối mặt thêu và đôi khăn tay (khăn môn).
Về nhà chồng, cô gái được mang theo của hồi môn gồm: “4 vật tạo thành tài sản của một gia đình”: ninh đồng ( mỏ nửng), chân chài ( tin he), thanh gươm trong bao ( mạ đáp) và khẩu súng săn ( lăm ống). Bộ đồ sứ gồm bát đĩa, ấm chén… to nhỏ; con trâu, lợn nái, gà mái ghẹ; gánh bung 5 yến thóc giống và gói hạt bông… Đây là những của nằm trong tục: “Nhà gái cho chồi, cho măng, cho giống mong cho nhà trai phát đạt” ( Lung ta au chựa au phăn au nó au ta haư nhinh xao). Với nhà giàu xưa còn cho chàng rể một con ngựa có cả yên cương.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ, cha mẹ cùng gia đình họ tộc phía ải noọng mởhội tiệc đón nàng dâu về để trở thành bà chủ một gia đình mới. Các nghi thức lễ lạy bậc cha mẹ đã kết thúc, nàng dâu bắt đầu trở về với chức năng nội trợ ở những gian chan. Bữa tiệc chuyển vào cuộc vui hát “sáng tác tức thì”, đối đáp giữa bên nam với bên nữ, Hai bên quảnvà chan, số đông người tụ tập nắm tay nhau tạo thành vòng xoè, múa theo nhịp chiêng trống tưng bừng nhộn nhịp. Họ cùng nhau mừng bản mường có thêm một gia đình - một nóc nhà mới.
Ngày nay
Việc cưới xin trong cư dân Thái hiện nay không còn thấy diễn ra các trình tự như lệ tục cổ truyền ở trên. Không biết tự bao giờ, người ta đã rút gọn và đơn giản hoá đi nhiều, chỉ còn trong ba nghi thức chính:
- Họ nhà trai nhờ mối lái tổ chức bữa tiệc nhỏ để gọi là lễ ăn hỏi ( bay mia). Quy mô của lễ gọi là bay này thường vẫn quan niệm là “đôi rượu đôi gà” ( đôi lảu đôi cáy) nhưng thực ra cũng không kém phần linh đình.
- Lễ cưới chính thức (vẫn là do họ nhà trai đứng ra tổ chức), trong đó có các nghi thức: dâng đồ sính lễ (gồm: vải vóc, bạc thật, tiền và đồ “ống bằng gói đủ”). Mối nhà trai dẫn chú rể ra mắt, lễ lạy họ tộc nhà gái cùng bản làng trước cỗ tiệc bàn lớn và tổ chức hội vui (xoè vòng theo nhịp trống - chiêng và ứng khẩu hát đối đáp). Chàng trai ở rể không quá 3 năm thì dẫn vợ về nhà mình.
- Tổ chức “cưới xuống” và đón dâu về nhà chồng. Với những cô gái chăm chỉ thì theo nếp xưa, tạo nên được một số sản phẩm là bông - vải sợi để làm đồ biếu tặng các bề trên trong gia đình chồng. Còn với những trường hợp không có đồ biếu tặng thì tuy có thấy hẫng hụt song cũng được bỏ qua và hầu như cũng chẳng ai chê trách gì trước những mai một của các truyền thống cũ.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 81, 8/2005, tr 4 - 6








