Huỳnh Thúc Kháng một nhân cách lớn
Năm 63 tuổi, (1939), tự sơ kết cuộc đời mình, Huỳnh Thúc Kháng ghi nhận có 3 quãng đường chính yếu: 16 năm théo Hán văn và cử nghiệp (1889-1905), 16 năm học quốc ngữ, Tây văn và ở tù (1905-1921), 13 năm là dân biểu và làm báo (1926-1939). Vinh quang nhiều mà đắng cay cũng không ít, từng đỗ đầu cả hai kỳ thi Hương (1900), thi Hội (1904); từng là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo đầu tiên và nổi tiếng nhất ở miền Trung (báo Tiếng Dân); từng là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ (1926-1928); nhưng Huỳnh Thúc Kháng cũng từng là một thầy lang nơi làng que hẻo lánh và nhất là từng “nếm mùi tù” suốt 13 năm đằng đẵng ở địa ngục trần gian Côn Đảo (1908-1921)… Sẽ là điều bình thường nếu những cung bậc thăng trầm có lúc đối lập nhau như vậy dễ tạo nên tâm trạng bất đắc chí, bàng quan nguội lạnh trước thế thái nhân tình ở một nhà nho khoa bảng, nhưng với Huỳnh Thúc Kháng, đó lại là chất liệu nuôi dưỡng, rèn luyện tinh thần và ý chí để mãi mãi giữ vẹn tấm lòng không thay đổi* với đất nước, giang sơn.
Nếu như không ít người trong tầng lớp nho sĩ đương thời xem chuyện học hành thi cử là phương tiện tiến thân để làm nên công danh sự nghiệp cho bản thân thì với Huỳnh Thúc Kháng, ngoài bổn phận phải thi đỗ đại khoa để thoả chí kỳ vọng của gia nghiêm, ông luôn xác định: học theo Tàu (…) không phải để ôm một cái tư tưởng hèn mạt, nhỏ nhen là làm thuê cho người Tàu, cũng như học theo Tây không phải chỉ để chun đầu vào các xưởng công thương làm thuê cho người Tây. Nhà học giả phải có một cái quê hương, phải luôn tâm niệm học thành tài để phụng sự cho đồng bào, cho đất nước - phương châm Huỳnh Thúc Kháng đặt ra cho bản thân mình cũng chính là bài học quý báu ông để lại cho con cháu vậy.
Huống chi, thời kỳ ấy, Tổ quốc còn đắm chìm trong vòng nô lệ. Dù học theo Tày hay theo Tàu, dù thừa nhận Nho học cũng như Tây học bên cạnh điều dở có nhiều điều hay, điều tốt thì trước tiên vẫn là bài học về bản lĩnh và nhân cách, về chí tiến thủ:
“Học là học trị mình làm trước…
Học là học cho minh công lý…
Học là học có nghề có nghiệp”
Và trên hết vẫn là bài học vì nước vì dân:
“Muốn cho đứng vững giữa trời
Phải thương nòi giống một lời đinh ninh”
Chính vì thế, mặc dù đường hoạn lộ thênh thang rộng mở sau khi thành cử nhân, tiến sĩ, Huỳnh Thúc Kháng lại cùng bạn bè đồng chí hướng đi vận động duy tân để mở mang dân trí và chấn hưng thực nghiệp. Bị kết án “xử tử, phát phối Côn Lôn”, ngay tại “hòn đảo mồ côi giữa cõi cùng”, Huỳnh Thúc Kháng lại cùng một số chính trị phạm khác xây dựng một trường học thiên nhiênđộc đáo trong tù: thi đàn Côn Đảo. Mùi tù càng nếm lại càng ngonnên vượt qua những thoáng muộn phiền bất lực trong hoàn cảnh tin tức vắng hiu - góc trời tiếng sóng chín chiều ruột đau, ông vẫn dõng dạc tuyên bố:
Tánh gừng quế càng già càng mãnh liệt.
Trải đường dài mới biết ngữa hay
Thân còn tâm huyết còn đây
Và luôn gửi về hồn nước những dòng huyết lệ: Bọn ta ôm giận mãi, sống thì thiệt mà chết thêm lở dở, máu đổ vũ hoà cùng giọt lệ, rừng xanh ải tía, hồn về thấu nước gọi sao đêm.
Với tấm lòng đó, ra tù, Huỳnh Thúc Kháng khước từ mọi lời mời mọc cộng tác của Pháp và triều đình Khải Định. Đến khi tham gia Viện Dân biểu Trung Kỳ, giữ chức Viện trưởng, ước nguyện của ông cũng nhằm để kêu gọi đồng bào bỏ thói hủ xưa, theo con đường mới (…), hiệp hoà mà lo việc yêu nước thương nòi. Ước nguyện không thành, ông từ chức và cùng tờ Tiếng Dân tiếp tục đấu tranh cho lợi ích quốc gia dân tộc.
Có thể vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau khi nhận định, đánh giá về lập trường, quan điểm và phương pháp đấu tranh của tiền nhân, nhưng đến hôm nay khi thực tiễn lịch sử đã đủ thời gian lắng đọng để nhận chân giá trị đích thực của mỗi con người, mỗi sự kiện thuộc về quá khứ, hẳn là hậu thế luôn dành những tình cảm trân trọng, cảm thông và chia sẻ đối với những cố gắng không mệt mỏi, những trăn trở ưu tư (kể cả những lầm lạc, chệch hướng khó lòng tránh khỏi) của cha ông - những người đã hết sức vẫy vùng mong cứu dân, cứu nước mà vẫn phải chấp nhận kết quả “trăm thất bại, không một thành công” như ý nguyện.
55 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân bày tỏ niềm trân trọng ấy với Huỳnh Thúc Kháng khi mời ông ra giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ rồi đảm nhiệm cả trọng trách Hội trưởng Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Tuổi đã già, sức đã yếu nhưng Huỳnh Thúc Kháng vẫn chu toàn mọi nhiệm vụ trọng đại được giao phó: quyền Chủ tịch nước trong thời gian Bác Hồ đi Pháp, đại diện Chính phủ đi kinh lý các tỉnh miền Trung vận động đồng bào tham gia kháng chiến… Từ trần ngay trên đường đi công tác, ông đã hiến dâng đến phút cuối của cuộc đời mình cho đất nước. Những lời chào vĩnh quyết gửi đến Hồ Chỉ tịch, anh em binh sĩ và các đảng phái tôn giáo càng làm sáng lên nhân cách lớn của nhà chí sĩ: “Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước nhà đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả”.
Xuất thân từ một “nhà nông nghèo trong thôn quê, hoàn cảnh phác dã, thô vụng, khô khan quê kệch”như ông thường tự nhận, Huỳnh Thúc Kháng đã nêu một tấm gương đáng khâm phục về quyết tâm luyện rèn tri thức, về nhân cách mực thước vững chãi và trên hết là một tấm lòng tận tuỵ vì nước vì dân. Nghiêm khắc mà khiêm cung, chất phác mà uyên bác, “giàu sang lợi lộc không ham - chông gai cay đắng cũng cam một bề”, tự trọng, trung thực và khẳng khái… - đó là những đức tính khắc hoạ nên chân dung đích thực của Huỳnh Thúc Kháng.
Dù núi sập, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả
Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn
Vâng, tấm lòng của nhà chí sĩ luôn trường tồn với đất nước quê hương như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bức thư gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước (29/4/1947): “Cụ Huỳnh tạ thế, nhưng cái chí vì nước vì nòi của Cụ vẫn luôn luôn sống mạnh mẽ trong lòng (…) đồng bào chúng ta”.
-----
(*) Những đoạn, câu in nghiêng trong bài trích từ thơ văn của Huỳnh Thúc Kháng.
Nguồn: Xưa và Nay, số 75 tháng 5 năm 2000, tr 22, 31








