Giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong khai thác khoáng sản
Tiềm năng khoáng sản
Việt Nam được đánh gia là quốc gia có tiềm năng và đa dạng về tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản. Trong đó, có một số loại khoáng sản lớn về trữ lượng như bauxite, titan, đất hiếm, than và một số loại quý về giá trị như dầu mỏ, urani… Tại một số nơi, có mỏ nằm tập trung như dầu khí ngoài khơi miền Nam, than ở Quảng Ninh, bauxite ở Tây Nguyên, apatit và đất hiếm ở các tỉnh phía Bắc.
Với nhiều lợi thế và đa dạng, tài nguyên khoáng sản đã góp phần quan trọng, đáp ứng nhu cầu nền kinh tế đất nước. Các hoạt động thăm dò, khai thác hàng năm tăng, từ năm 1996 đến nay đã có 571 đề án thăm dò đối với hơn 20 loại khoáng sản (chủ yếu nguyên liệu xi măng, quặng titan, đá ốp lát, đá cát sỏi lòng sông làm vật liệu xây dựng…)
Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước như: Xuất khẩu dầu thô, khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất xi măng, các công trình cơ sở hạ tầng, công nghiệp cơ khí, luyện kim, chất đốt phục vụ sản xuất điện năng, phân hóa học, sinh học, hữu cơ tổng hợp phục vụ nông nghiệp… Công nghiệp khai khoáng đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân và tăng đáng kể trong 15 năm trở lại đây, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Công nghiệp khai khoáng sản được khai thác, chế biến. Nhiều loại khoáng sản được các doanh nghiệp khai thác với sản lượng lớn và tăng đều hàng năm như: Than, vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất xi măng, apatit, đá hoa làm đá ốp lát, làm bột cacbonate canxi… Một số loại khoáng sản có nhu cầu lớn trên thị trường nhưng do tiềm năng có hạn nên sản lượng có tăng không đáng kể như: Quặng vàng, đồng, thiếc, chì, kẽm… Cả nước hiện có khoảng 500 cơ sở chế biến có quy mô ở mức độ công nghiệp như: Than (Quảng Ninh), sắt Trại Cau (Thái Nguyên), đồng Sin Quyền (Lào Cai), đá trắng ở Lục Yên, Yên Bình (Yên Bái), đá trắng ở Quỳ Hợp (Nghệ An). Ngoài ra, còn phải kể đến một số khối lượng đá vôi, đá sét, phụ gia rất lớn khai thác được để cung cấp cho các nhà máy xi măng trong cả nước. Những mỏ có sản lượng nhỏ thường là các loại khoáng sản như: Chì, kẽm, thiếc, antimone, crom, mangan…
Hiện trạng khai thác
Hiện nay, do chưa làm chủ được công nghệ, nhất là công nghệ chế biến các doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản chủ yếu chạy theo lợi nhuận nên chỉ chú ý đến khai thác khoáng sản có chất lượng tốt, hàm lượng giàu cùng với công nghệ lạc hậu đã gây tổn thất, lãng phí tài nguyên do không thu hồi tối đa quặng nghèo, khoáng sản đi kèm. Khai thác vàng là một ví dụ, do mức độ thu hồi quặng vàng trong chế biến hiện chỉ đạt khoảng 30-40%, nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài bãi thải, không chỉ làm lãng phí tài nguyên mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đối với những mỏ vàng vừa và nhỏ do dân tự khai thác với công nghệ thô sơ, càng không thể đánh giá hết những tổn thất. Nếu so với chỉ tiêu một số nước, thu hồi vàng trong quặng thường chiếm 92-97% thì rõ ràng là một tổn thất quá lớn.
Quá trình khai thác mỏ phục vụ lợi ích, con người làm thay đổi môi trường xung quanh. Hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng, phi quặng và vật liệu xây dựng như tiến hành xây dựng mỏ, khai thác thu hồi khoáng sản, đổ thải, thoát nước mỏ đã phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây sự ô nhiễm nặng nề đối với môi trường.
Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ảnh hưởng đến ô nhiễm nguồn nước. Nhiều mỏ, khu vực khai thác đã gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, do một lượng nước thải từ mỏ thải ra không được xử lý. Nhiều bãi thải không có công trình xử lý nên khi có mưa xuống đã gây ô nhiễm nguồn nước, chất thải lơ lửng, hòa tan trôi xuống ruộng ảnh hưởng đến đất nông nghiệp. Trong thành phần nước thải thường có axít, tính kiềm cao, có kim loại nặng, chất độc hại… làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước trên diện rộng.
Khai thác mỏ ảnh hưởng đến chất lượng không khí, ở hầu hết các mỏ khi khai thác đã thải ra lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho phép, nhất là ở mỏ đá, mỏ than. Đồng thời, ảnh hưởng đến cảnh quan làm biến dạng địa hình tự nhiên, phá hủy nhiều cảnh quan môi trường như phong cảnh thiên nhiên, thảm thực vật, đa dạng sinh học. Hiện tượng sạt đất, xói lở bờ sông và sự cố môi trường, nguy cơ xuất hiện các hiện tượng địa chất công trình động lực ven biển như biển xâm thực, biến dạng đường bờ biển, sạt lở bờ biển, cát bay, cát chảy… Ngoài ra, khai thác mỏ còn ảnh hưởng đến phát triển tài nguyên thiên nhiên và các ngành kinh tế khác…
Trong thực tế, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 yêu cầu các dự án khai thác, chế biến khoáng sản phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường. Song việc lập báo cáo đối với nhiều dự án không đảm bảo chất lượng vì chỉ mang tính hình thức. Trong quá trình triển khai dự án ít có doanh nghiệp thực hiện theo đúng nội dung báo cáo.
Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Theo các nhà khoa học và chuyên gia về ngành khai khoáng, để quyết định đưa một mỏ vào khai thác cần phải xem xét thận trọng giữa lợi ích trước mắt cũng như lợi ích lâu dài, bảo đảm các yêu cầu phát triển bền vững. Trước hết, nên khai thác mỏ ít chất thải. Bởi một thách thức lớn phải giải quyết trong quá trình khai thác mỏ là quản lý chất thải rắn trong mỏ. Ngành công nghiệp khai thác mỏ hàng năm tạo ra một khối lượng đất đá thải rất lớn do phải bóc lớp đất phủ và quặng nghèo không đáp ứng yêu cầu chế biến trong khai thác lộ thiên. Trong đất đá thải chứa nhiều tạp chất khác nhau nên phải được quản lý theo một quy trình nghiêm ngặt để ngăn ngừa ô nhiễm nước mặt và nước ngầm.
Việc chuyển đổi từ khai thác lộ thiên sang hầm lò sẽ hạn chế và giảm thiểu tác động đến môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm nước mặt cũng như nước ngầm do đất đá thải gây ra. Tài nguyên khoáng sản ở độ sâu vừa phải được khai thác bằng phương pháp lộ thiên ở giai đoạn trước, nay đã cạn kiệt nên phải khai thác tài nguyên khoáng sản ở độ sâu lớn nằm trong lòng đất bằng phương pháp hầm lò. Hiện nay, các mỏ than Quảng Ninh đang phải lựa chọn phương pháp khai thác hầm lò hoặc phương pháp kết hợp lộ thiên và hầm lò để khai thác than trong điều kiện than ở độ sâu không lớn đang cạn kiệt và đáp ứng nhu cầu tăng sản lượng hàng năm.
Khai thác mỏ cần được tối ưu hóa, vì nước phải được tiêu thụ, sử dụng có hiệu quả, đồng thời áp dụng công nghệ tái sử dụng nước một cách tối đa. Các thiết bị sử dụng trong mỏ phải bảo đảm yêu cầu tiêu hao năng lượng thấp, mạnh dạn thay thế thiết bị cũ, lạc hậu không bảo đảm yêu cầu tiết kiệm năng lượng và thải ít chất thải ra môi trường xung quanh.
Các doanh nghiệp sau khi khai thác có nghĩa vụ đóng cửa mỏ, bảo đảm mục đích loại bỏ những tác động lâu dài đến môi trường, phục hồi lại đất đai để có thể đáp ứng yêu cầu trồng trọt, canh tác hoặc các mục đích phù hợp khác, bảo đảm việc sử dụng đất được phê duyệt, bảo đảm cảnh quan được trở lại trạng thái ban đầu trước khi khai thác.
Hiện nay, công nghiệp khai khoáng đang đối mặt với nhiều thách thức, phải giải quyết. Trong đó, các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới công nghệ, hướng tới công nghệ sạch, đó là giải pháp quan trọng nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản phải hướng tới công nghệ sử dụng tiết kiệm tài nguyên, làm giảm áp lực gia tăng lượng khoáng sản. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật và đưa ra các sáng kiến, giải pháp phù hợp trong quá trình khai thác mỏ, bảo đảm phát triển bền vững ngành khai khoáng trong quá trình CNH-HĐH đất nước.








