Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 03/11/2014 17:18 (GMT+7)

Bảo vệ môi trường nguồn nước mặt

Việt Nam là quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc, với 2.360 con sông có chiều dài hơn 10 km, trong đó có 109 con sông chính. Trên cả nước có 16 LVS, với lưu lượng nước lớn hơn 2.500 km 2; 10 trong số 16 LVS có diện tích hơn 10 nghìn km 2 . Tổng lượng nước mặt của các LVS khoảng từ 830 đến 840 tỷ m 3 /năm, tuy nhiên chỉ có khoảng 37% là nước nội sinh, còn lại là nước chảy từ các quốc gia láng giềng vào lãnh thổ Việt Nam. Những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân ở hạ lưu hầu hết các LVS nằm trong tình trạng suy giảm nguồn nước dẫn tới thiếu nước, khan hiếm nước không đủ cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất đang diễn ra thường xuyên hơn trên phạm vi rộng và ngày càng nghiêm trọng. Thực trạng này đã gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái các dòng sông, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, đã làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất, cho nên sông, hồ trong các đô thị dần bị thu hẹp dòng chảy, thậm chí có nơi bị lấp hoàn toàn để lấy đất phục vụ xây dựng các công trình giao thông, khu dân cư, nhà máy, khu công nghiệp (KCN). Song song với quá trình đô thị hóa, là sự phát triển của các KCN, cho nên nhu cầu sử dụng nước ngày càng lớn. Điều này đã và đang gây sức ép đến nguồn nước sử dụng, cũng như chất lượng môi trường nguồn nước mặt ở nước ta bị ô nhiễm ở nhiều khu vực và đang có xu hướng mở rộng về phạm vi và mức độ ô nhiễm. Cụ thể, ở khu vực miền bắc, nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng, môi trường nước mặt ở nhiều nơi đã bị ô nhiễm. Tại LVS Cầu hiện có nhiều đoạn sông chảy qua các khu vực đô thị, KCN và các làng nghề truyền thống bị ô nhiễm nghiêm trọng thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh...

Tại khu vực miền trung và Tây Nguyên, môi trường nước lại chịu tác động chủ yếu do nước thải của ngành công nghiệp chế biến như cao-su, mía đường, tinh bột sắn, cà-phê..., hoạt động chăn nuôi, nhất là từ các công trình thủy điện nhỏ. Khu vực Đông Nam Bộ, chủ yếu nguồn nước bị ô nhiễm là do nước thải công nghiệp và sinh hoạt, song vấn đề ô nhiễm chỉ tập trung tại vùng trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội phía nam, nơi có nhiều đô thị và KCN. Theo số liệu thống kê, ở khu vực này có 114 KCN, khu chế xuất (KCX) đang hoạt động, chủ yếu tại các tỉnh, thành phố như Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh... song hiện vẫn còn hơn 30% số KCN, KCX chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đáng chú ý, khu vực này là nơi có tỷ lệ dân cư sống ở khu đô thị cao nhất của cả nước (chiếm 57%). Hiện, chỉ có TP Hồ Chí Minh mới lắp đặt được hệ thống xử lý nước thải tập trung, nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần so với yêu cầu thực tế...

Trong thời gian qua, các cấp có thẩm quyền đã ban hành hàng loạt các chính sách, văn bản như tổ chức phân công trách nhiệm quản lý môi trường nước tại các cấp; triển khai xây dựng và thực hiện các quy hoạch LVS; tăng cường công tác đánh giá môi trường bằng việc cấp phép xả thải, thanh tra, kiểm tra, quan trắc môi trường nước; xây dựng nguồn lực cho công tác này, cũng như huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý môi trường nước... Tuy nhiên, trước những áp lực và hiện trạng chất lượng môi trường nước hiện nay, công tác quản lý môi trường nước ở nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, cho dù chúng ta đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo hành lang pháp lý, nhưng các quy định vẫn chưa đầy đủ và còn chồng chéo trong hệ thống văn bản, tính thực thi của một số văn bản còn thấp, chưa sát với tình hình thực tế...

Ở cấp địa phương, công tác thực thi các văn bản còn chậm và không triệt để, điển hình như quy định về cấp phép, xử lý vi phạm hành chính đối với ô nhiễm môi trường tại một số địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra và quan trắc môi trường chưa phát huy được hết vai trò, do nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý và bảo vệ môi trường (BVMT) nước còn nhiều hạn chế, cũng như sự hợp tác quốc tế thiếu tính bền vững và hiệu quả sau khi kết thúc các dự án, chương trình...

Để từng bước nâng hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước, cũng như khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt, nhất là tại các khu đô thị, KCN, KCX ở các địa phương hiện nay, các cấp có thẩm quyền trước hết cần tập trung rà soát, bổ sung và hoàn thiện chính sách pháp luật, thể chế về BVMT nguồn nước mặt; điều chỉnh phân công trách nhiệm cụ thể hơn nữa giữa các bộ, ngành, giữa T.Ư và địa phương, tránh sự chồng chéo như thời gian qua.

Sớm xây dựng và triển khai việc quy hoạch LVS, quy hoạch phân vùng khai thác sử dụng nước, nhất là tăng cường công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường nước mặt tại các khu vực trọng điểm để từ đó áp dụng các công cụ kinh tế, các giải pháp khoa học công nghệ trong BVMT nước; đồng thời khuyến khích sự tham gia, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong công tác giám sát môi trường nước nơi mình sinh sống; thúc đẩy các hoạt động quốc tế trong quản lý và BVMT nước, nhất là vấn đề xuyên biên giới...

Tại các LVS khu vực miền bắc, các cơ quan chức năng cần tăng cường thanh tra, kiểm soát các khu vực ô nhiễm nghiêm trọng và triển khai các biện pháp xử lý nước thải tại các KCN, KCX, các làng nghề nằm trên LVS; đẩy mạnh việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh... Các LVS thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các KCN, KCX; tăng cường giám sát các hoạt động trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản, bởi đây cũng là tác nhân gây ô nhiễm môi trường mặt nước ở khu vực này thời gian qua...

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.