Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 12/02/2010 17:39 (GMT+7)

Trạng nguyên năm Dần

Triều đại

Thời gian

Số khoa thi

Vuơng triều Lý

1010 - 1225

5

Vương triều Trần

1225 - 1400

11

Vương triều Hồ

1400 - 1407

5

Vương triều Lê Sơ

1428 - 1527

30

Vương triều Mạc

1527 - 1592

22

Nhà Lê Trung Hưng

1533 - 1788

73

Triều đại Tây Sơn

1778 - 1802

1

Vương triều Nguyễn

1802 - 1945

38

185

Tổng cộng 185 khoa thi đã tuyển chọn được 2898 vị đỗ đại khoa, trong đó có 5 vị thủ khoa (khi Vương triều Lý và Vương triều Trần chưa đặt định chế tam khôi nên chưa gọi các vị thủ khoa là Trạng nguyên), 46 Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2462 Tiến sĩ và 266 Phó Bảng.

Sau khi áp đặt được ách đô hộ lên đất nước ta, thực dân xâm lược Pháp cũng đã xóa bỏ luôn cả các khoa thi Nho học. Ngày 21 – 12 – 1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đặt lại việc thi cử. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng đã kết thúc chế độ học và thi cũ đã từng tồn tại trên đất nước ta gần 850 năm.

Các khoa thi năm Dần

Trong số các khoa thi, năm Dần được chọn tới 10 lần. Tại mỗi khoa thi đều chọn được các vị đỗ đại khoa, từ Phó bảng đến Trạng nguyên.

TT

Khoa thi

Năm

Trạng nguyên

Bảng nhãn

Thám hoa

Hoàng giáp

Tiến sĩ

Phó bảng

1

Bính Dần

1266

2

1

47

2

Giáp Dần

1374

1

1

1

1

50

3

Mậu Dần

1458

4

4

Mậu Dần

1518

1

1

1

1

17

5

Giáp Dần

1554

13

6

Nhâm Dần

1602

1

10

7

Canh Dần

1650

1

8

8

Canh Dần

1710

1

21

9

Bính Dần

1746

1

4

10

Nhâm Dần

1842

1

13

6

Cộng

4

2

5

5

187

6

Các vị Trạng nguyên

Năm 1246, Vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinhlấy đậu theo tam giáp (Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp). Học vị Trạng nguyênxuất hiện trong khoa thi Bính Ngọ này. Năm sau (1274), Vua định lại thứ bậc trong tam giáp, trong đó Nhất giáp có Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Để khuyến khích việc học ở những vùng xa kinh đô có nhiều khó khăn, các năm 1256 dưới thời Vua Lý Thái Tông và 1266 dưới thời vua Trần Thánh Tông, Vua cho mở khoa thi lấy đậu Kinh Trạng nguyên(người ở miền Bắc bấy giờ) và Trại Trạng nguyên(người từ Thanh Hóa trở vào).

Năm 1305 dưới thời vua Trần Anh Tông, người đỗ Nhị giáp gọi là Hoàng giáp,người đỗ Tam giáp gọi là Thái học sinh. Năm 1374 dưới thời vua Trần Duệ Tông, người đỗ khoa thi Thái học sinh thì gọi là Tiến sĩ. Sau đó có cuộc thi ở điện đình để lấy đậu Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng Giáp. Từ năm 1829 dưới thời vua Minh Mạng (triều Nguyễn) có thêm học vị Phó bảng (Tiến sĩ hạng hai).

Trong số 209 vị đỗ đại khoa các năm Dần có 4 Trạng nguyên

1. Khoa thi Bính Dần (1266)

Kinh Trạng nguyên Trần Cố

Người xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Trú quán xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Đỗ Kinh Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long 9 (1266) đời Trần Thánh Tông.

Trại Trạng nguyên Bạch Liêu

Người làng Nguyễn Xá, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn Ninh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trú quán làng Nghĩa Lư, huyện Thanh Lâm, nay thuộc xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Đỗ Kinh Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Long 9 (1266) đời Trần Thánh Tông.

Ông nguyên là môn khách của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, bản tính thông minh nhớ lâu, đọc sách mười dòng một lúc. Khi Trần Quang Khải vào cai quản châu Nghệ An, ông chỉ là gia khách, không ra làm quan.

2. Khoa thi Giáp Dần (1374)

Trạng nguyên Đào Sư Tích

Người xã Cổ Lễ, huyện Tây Chân, nay là thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Có tài liệu nói ông người làng Song Khê, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Trú quán thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Cha là Đào Toàn Mân, giữ chức Tri thẩm hình viện sự (1381).

Đỗ Trạng nguyên khoa thi Giáp Dần niên hiệu Long Khánh 2(1374) đời Trần Duệ Tông. Từ thi Hương đến thi Đình ông đều đỗ thủ khoa.

Làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển. Dưới thời Hồ Quý Ly, ông bị giáng chức Trung thư thị lang, Đổng tri Thẩm hình viện sự. Sau khi mất ông được phong phúc thần.

Gia phả ghi ông thọ 47 tuổi. Tác phẩm có bài Tựa sách Bảo hoà điện dư bút(của Trần Nghệ Tông soạn, đã mất) và một bài phú chép trong QHPĐ.

3. Khoa thi Mậu Dần (1518)

Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu

Người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 20 tuổi đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Mậu Dần niên hiệu Quang Thuận 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông.

Làm quan với nhà Mạc đến chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đô ngự sử, Chưởng hàn lâm viện sự, Nhập thị kinh diên, tước Lý Khê bá.

Theo Ngô tộc gia phả, ông từng được Mạc Đăng Dung triệu với để hoạ bài thơ vịnh Bèo của Mạc Bá Ôn nhà Minh (1534), sau đó ở lại làm quan triều Mạc đến chức Lại bộ Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Ngự sử đài, Đô ngự sử, Hàn lâm viện Thị thư, tước Trình Khê hầu.

Giai thoại về Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu

Ngô Miễn Thiệu quê làng Tam Sơn - một làng nổi tiếng hiếu học và khoa bảng, nơi duy nhất có đủ “Tam khôi” (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) mà chính ông là một trong hai người đoạt học vị Trạng nguyên (Nguyễn Quan Quang và Ngô Miễn Thiệu) và cha ông là Ngô Thẩm, đoạt học vị Bảng nhãn khoa thi Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493).

Ngô Miễn Thiệu nổi tiếng thông minh mẫn tiệp. Là người hội tụ được truyền thống hiếu học và khoa bảng dòng họ Ngô. Năm hai mươi tuổi, Ngô Miễn Thiệu đỗ Trạng nguyên khoa thi Mậu Dần niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 (1518) đời Lê Chiêu Tông. Ông làm quan dưới triều Mạc, thăng tới chức Thượng thư kiêm Đô ngự sử, Chưởng hàn lâm viện sự, Nhập thi kinh diên, tước Lý Khê bá.

Người xưa có câu “Hổ phụ sinh hổ tử” để nói về những người cha tài giỏi đã sinh thành, nuôi dưỡng nên những người con tuấn kiệt. Đó cũng là trường hợp Ngô Miễn Thiệu là “hổ tử” của “hổ phụ” Ngô Thầm, người đã đoạt học vị Bảng nhãn tại khoa thi Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493), tức là 25 năm về trước. Có điều “hổ tử” này đã đỗ cao hơn “hổ phụ”. Âu cũng là “con hơn cha, nhà cú phúc”.

Ngô Miễn Thiệu không chỉ là bậc quan tài năng mẫn cán, mà còn là người thầy giỏi giang, mẫu mực về trí tuệ và đức độ. Vì vậy ông đã đào tạo nên nhiều bậc nhân tài cho đất nước, ngay trong lúc cư quan nhậm chức, cũng như lúc nghỉ hưu ông đều mở trường dạy học tại quê nhà. Với sự dạy dỗ rèn luyện trực tiếp của ông, hai người con trai đều đỗ Tiến sĩ: Ngô Diễn đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch thứ ba (1550); Ngô Dịch đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo thứ ba (1556).

Đặc biệt thầy giáo Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu chính là người đã dạy dỗ Nguyễn Gia Mưu đạt học vị Tiến sĩ và trở thành ngoại tổ của dòng họ Ngô Nguyễn ở Tam Sơn - một trong ba dòng họ nối đời khoa bảng ở làng quê nổi tiếng này.

Nguyễn Gia Mưu, quê làng Nghĩa Lập, nay thuộc xã Phù Khê, huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh) - một dòng họ lớn và có truyền thống hiếu học. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Gia Mưu đã nổi tiếng thông minh và ham học, song vì nhà nghèo và bố mất sớm nên không có tiền ăn học. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của người chú ruột - Tiến sĩ Nguyễn Hữu Thường, và lòng thương con hết mực, khát vọng của người mẹ mong con thành đạt đã khiến Nguyễn Gia Mưu đến với thầy học - Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu.

Tương truyền rằng khi đỗ Tiến sĩ vinh quy về làng, ông nghè Nguyễn Hữu Thường đã bắt người cháu ruột của mình là Nguyễn Gia Mưu ra đường cái quan cáng võng bà quan nghè về quê bái tổ. Uất ức vì sự đối xử của người chú ruột, Nguyễn Gia Mưu cáng võng người thím ruột - vợ quan nghè Nguyễn Hữu Thường, về đến đầu làng, rồi bỏ quê tới Tam Sơn, xin học thầy Ngô Miễn Thiệu. Thấy người học trò đã cao tuổi (bấy giờ Nguyễn Gia Mưu đã 28 tuổi), thầy Ngô Miễn Thiệu liền thử ý chí và tinh thần hiếu học của Nguyễn Gia Mưu bằng việc ra điều kiện: Phải mang xôi trâu, nén bạc đến nộp cho thầy. Gia Mưu lẻn về nhà thưa với mẹ. Thương con, người mẹ bèn đem việc này bàn với quan nghè Nguyễn Hữu Thường. Thấy người cháu ruột quyết chí tiến thủ bằng con đường hoạn lộ, người chú ruột nhận lời giúp đỡ tận tình, nhưng giấu kín không cho cháu biết, để nuôi dưỡng lòng quyết tâm học tập của Nguyễn Gia Mưu. Với sự giúp đỡ trực tiếp của thầy Ngô Miễn Thiệu, Nguyễn Gia Mưu thực sự bộc lộ được đức tính của người học trò thông minh, chăm học và hiếu thảo. Chính vì vậy thầy càng yêu quý, tin tưởng vào tài năng của người học trò chắc chắn sẽ thành đạt, đi tới thuận lòng gả con gái của mình cho người học trò yêu: Nguyễn Gia Mưu. Thế là thầy học, đồng thời là bố vợ, Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu đã ngày đêm dạy dỗ, chỉ bảo cho người con rể của mình, đợi ngày đoạt chiếm bảng vàng. Nhưng lạ thay, thầy Ngô Miễn Thiệu nhận thấy từ ngày có vợ, Nguyễn Gia Mưu học hành có phần chểnh mảng. Ông liền hỏi con rể xem sự tình ra sao, thì được biết việc chăm sóc của con gái mình với chồng chưa được tận tình chu đáo. Thầy Ngô Miễn Thiệu đã khuyên bảo và yêu cầu con gái phải chuyên tâm trợ giúp chồng ăn học. Là người thầy tài giỏi và người bố vợ tận tình, Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu đã được trả công thật xứng đáng. Năm năm miệt mài kinh sử văn sach, Nguyễn Gia Mưu đỗ Hương Cống khi ông 33 tuổi và đến năm 37 tuổi ông đỗ Tiến sĩ.

Ngày vinh quy bái tổ, Nguyễn Gia Mưu đã không về nơi sinh quán làng Nghĩa Lập, mà về quê vợ, nơi mà ông đã ăn học dưới sự dạy dỗ của người bố vợ Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu. Cũng bắt đầu từ đó Nguyễn Gia Mưu đã sinh cơ lập nghiệp tại làng Tam Sơn. Từ đây, nảy sinh một dòng họ nối đời khoa bảng, mà ngoại tổ chính là Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu.

Tiến sĩ Nguyễn Gia Mưu sinh ra Tiền đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Cấm y vệ, Đô thỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Triều Lộc hầu Ngô Tướng công tự Cường Nghị.Ông Cường Nghị sinh ra Ngô Tướng công tự Tính Thiện. Ông Tính Thiện sinh ra Ngô Sách Thí, Ngô Sách Thí đỗ Tiến sĩnăm 28 tuổi khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659), làm quan sát sử. Đây là ông tổ khoa bảng dòng họ Ngô Sáchở Tam Sơn, mà chính là dòng họ Nguyễn làng Nghĩa Lập. Chính là bắt đầu từ cụ Cường Nghị, tuân theo lời di huấn của người cha là Nguyễn Gia Mưu, dòng họ Nguyễn ở đây đã chuyển sang dòng họ mẹ, để đời đời nhớ ơn và di tôn truyền thống thông minh, hiếu học và khoa bảng của vị ngoại tổ: Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu, người thầy tài giỏi đã góp phần đào tạo nhiều danh nhân cho quê hương Tam Sơn, Kinh Bắc - Bắc Ninh.

Ghi chú: Xin chân thành cảm ơn tác giả Trần Hồng Đức đã cung cấp những tư liệu quý giá cho các trang viết này.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...