Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ ba, 01/07/2014 19:02 (GMT+7)

MẤY NGUYÊN TẮC KHOA HỌC VỀ CON NGƯỜI

  Bài viết này thuộc về phạm vi  tri-thức-luận (épistémologie), hiểu theo một nghĩa có định giới hạn hẳn hoi. Nó không có ý bàn về bất cứ tri thức nào, nhưng có ý bàn riêng về tri thức khoa học, hiểu theo quan niệm của các nhà nghiên cứu khoa học. Vì thế không phải bất cứ cái gì mà người này hay người kia gọi là khoa học, để cho nó có uy tín, đều là khoa học theo như nghĩa đó. Một ví dụ : khi  Friedrich Engels, người đồng chí của  Karl Marx, gọi học thuyết cộng sản là « xã hội chủ nghĩa có tính cánh khoa học ». Lại một ví dụ khác : ngày nay khi nhà Phật truyền bá đạo Phật cho người Âu Mỹ đã quen với tư tưởng và hoạt động khoa học từ nhiều thế kỷ, thì thay vì nói rằng đạo Phật là một triết học hay là một tôn giáo, thì có một số Phật tử lại quả quyết rằng đạo Phật là một khoa học căn cứ vào kinh nghiệm. Nói như thế là có ý cao tuyên rằng các học thuyết ấy là chân lý vững bền, đồng thời cũng chủ trương rằng ai không theo như thế thì hoặc là đi ra ngoài hướng đi của lịch sử, hoặc là còn đang ở trong tình trạng « vô minh ». Nói vậy, nhưng ai nấy đều thừa biết rằng các chủ trương ấy không phải là khoa học và tự nó cũng chẳng phát sinh ra được khoa học nào như các môn toán học, vật lý học hay là hóa học.

Triết gia Karl  Popper chủ trương một cách khiêm tốn rằng những mệnh đề khoa học chỉ là những điều phỏng đoán (conjectures) chưa bị thực nghiệm đánh đổ. Nếu hiểu khoa học như thế theo tiêu chuẩn của Popper[1] – như sẽ nói tới sau đây – thì chưa chắc người ta đã tranh nhau để giới thiệu lập trường của mình như là khoa học !

Vì thế thiết tưởng cần phải xác định quan niệm về khoa học và về chân lý, để tránh cho người nghe khỏi bị lầm, nếu không phải là bị lừa. Muốn tránh không lẫn lộn tất cả thì chỉ có một cách là phân biệt. Vậy bài này sẽ đề cập đến những khái niệm có sẵn – nhưng thường không nói ra – khi người ta đi vào tri thức khoa học. Ta sẽ nói tới khái niệm chân lý ; rồi đến khái niệm khoa học ; sau đó thì nói qua về khoa học về thiên nhiên ; và sau cùng thì đề cập đến khoa học về con người.

1.KHÁI NIỆM CHÂN LÝ

Ta thường nghe những người có ăn học nói rằng : Chân, Thiện, Mỹ, là ba mục tiêu của đời người. Một là  biết sự thật, biết thế nào là chân lý ; hai là  làm điều lành, điều thiện ; ba là  cảm cái đẹp, thẩm mỹ. Nhưng đó là nói một cách tổng quát, trừu tượng, chứ thực ra trong đời sống thường nhật người ta  quen theo đuổi những cái cụ thể hơn, ví dụ như tìm những cái gì hữu ích, hữu hiệu, những cái làm cho mình sung sướng thoải mái, và cho rằng như thế là  phải. Chữ  phải ở đây lại có nhiều nghĩa : có thể có nghĩa là  đúng, đúng thật, chứ  không sai, không  giả; nhưng lại cũng có nghĩa là  không trái, không đi ngược lại luân thường đạo lý hay phong tục tập quán. Dùng chữphảinhư thế là thiếu minh bạch. Đã thế vấn đề lại còn mơ hồ hơn nữa, nếu ta thêm vào đó một vài quan niệm bí hiểm, chủ trương rằng cái mà phàm nhân cho là  cái có, cái thật, thì tựu trung, đối với những vị thượng trí siêu phàm, cũng chỉ là  cái không, cái giả, y như trong giấc mộng của Trang Chu, người trong cuộc không có cách biết đâu là  thực, đâu là  hư, đâu làsắc, đâu làkhông . Nếu quả là như thế thì vấn đề chân lý thành ra vô nghĩa, mà rồi cũng không có cơ sở gì để đặt vấn đề khoa học nữa.

Nhưng chẳng lẽ lại không có chân lý ?

Nói rằng không có chân lý, đó là một câu nói tự mâu thuẫn (self defaiting utterance). Nhà tư tưởng Aâu châuThomasngười thành Aquino (Ý, 1225-1274) lập luận như sau : « Có chân lý, đó là sự hiển nhiên, vì ai nói rằng không có chân lý thì chính người ấy đã thừa nhận rằng có chân lý rồi ; thực vậy, nếu không có chân lý, thì ít ra cũng có một điều thật, đó là câu « không có chân lý » ; một khi đã nhận một điều gì là thật, thì cũng phải nhận là có chân lý »[2] . Vì thế khi người ta chỉ theo đuổi những cái hữu ích, hữu hiệu, làm cho mình được sung sướng hạnh phúc, thì tuy không nói ra, người ta vẫn đinh ninh rằng có thật như vậy.

Nhưng chưa hết vấn đề. Vì ai cũng thấy rằng có nhiều thứ chân lý khác nhau, chống chọi nhau, như chân lý trong đời sốâng thường nhật, chân lý khoa học, chân lý triết học, chân lý tôn giáo, nghĩa là có nhiều phạm vi chân lý khác nhau, căn cứ vào những tiêu chuẩn khác nhau. Nếu không biết phân biệt như thế thì rất dễ gây ra cạnh tranh một cách thật là vô lý và nguy hiểm : nếu ta phải, thì người khác sai ; nếâu họ không theo như ta, thì một là ngu dốt, hai là cố chấp ; ngu dốt thì phải được dạy bảo, cố chấp thì phải trừng trị ! Biết bao nhiêu bạo động đã được áp dụng vì người ta theo luận điệu như thế.

Muốn phân biệt thì thiết tưởng phải chia ra hai loại chân lý.

Loai thứ nhất gồm những chân lý thuộc về phạm vi tri thức khoa học  về sự vật[3] ,  có thể minh chứng[4]hay là  có thể kiểm chứng[5] . Những chân lý loại này có tính cách phổ thông, nó là của chung mọi người, chứ không phải là của riêng ai. Cho nên không ai hi sinh mạng sống của mình để bênh vực cho một chân lý như « hai với hai là bốn », cũng không ai dùng tuyên truyền hay võ lực để cổ võ cho chân lý ấy. Muốn thuyết phục người khác, chỉ có một cách là minh chứng hay kiểm chứng mà thôi.

Loại thứ hai gồm những chân lý thuộc về phạm vi hành động, nó là động lực cho sự dấn thân của người ta trên bình diện đạo đức hay là tôn giáo, ví dụ như lòng trung với vua, với nước, với vợ, với chồng, với bằng hữu, lòng hiếu với cha mẹ, v.v. Thái độ trung thành là do ý chí con người có lập trường, muốn làm chủ tương lai của mình, chứ không tùy gió phất cờ, không tùy theo nước xuôi dòng, không chịu để cho các biến cố ngoại lai hoàn toàn định hình cho vận mệnh của mình. Những chân lý ấy làm cho người ta sống có ý nghĩa, nhưng lại không có tính cách phổ thông, không minh chứng được, không kiểm chứng được. Muốn thuyết phục được người khác, chỉ có một cách là đem thân ra, đem nếp sống của mình ra mà chứng thực. Tuy vậy nếu phải bỏ nó, người ta có cảm giác như là đánh mất một phần bản thân mình, vì thế người ta rất dám hi sinh mạng sống để giữ lấy lập trường của mình. Đây là loại chân lý gắn liền với bản thân, nhưng không phải vì thế mà người ta không quan tâm đến các chân lý khách quan, minh chứng được hay kiểm chứng được. Chính vì lẫn lộn hai phạm vi, và vì không thuyết phục nổi người khác, cho nên trong phạm vi này người ta hay có khuynh hướng muốn dùng võ lực để bó buộc người khác theo lập trường của mình, như người nhà quê ta thường nói : già đòn non nhẽ (lẽ).

Sau khi phân biệt hai loại chân lý, cần phải xác định tiêu chuẩn để nhận ra chân lý. Người ta thường đưa ra mấy tiêu chuẩn, như : sự việc  hiển nhiên,  trực giác của cá nhân,  mọi người đồng ý vì cùng có trực giác và cùng lý luận như nhau,  uy tín của sư phụ có cao kiến hơn mình, v.v. Sau đây chỉ xin đặt vấn đề về tri thức khoa học mà thôi.

2. KHÁI NIỆM KHOA HỌC

Như vừa nói trên đây, nếu không tin là có chân lý thì không thể đặt vấn đề tri thức khoa học, vì khoa học nhằm biết đích xác sự vật. Tuy vậy giữa cái lý tưởng khoa học và những cái sở đắc của khoa học, thì ai cũng thấy là có chênh lệch rất nhiều. Vì thế khi nói đến khoa học, cần phải phân biệt cho rõ là mình nói về  cái lý tưởng khoa học, hay là về  những điều sở đắc cụ thể của khoa học. Sau đây sẽ nói về lý tưởng khoa học và về các loại khoa học khác nhau. Tiếp theo đó sẽ xem các loại khoa học làm thế nào để đạt đích.

Khái niệm khoa học đã được thành hình trong lịch sử tư tưởng Aâu châu, như là một lý tưởng mà các khoa học về các đối vật khác nhau phải nhằm tới.

Nói chung thì các dân tộc đều nhận định rằng có cái biết hời hợt trong đời sống hằng ngày, và có cái biết sâu xa, đi thấu vào chân tướng hay là chân tính của sự vật. Người Hi-lạp thời Thượng-cổ gọi cái trước là  đoxa, tức là  dư-luận, vì nó hay thay đổi, không vững chắc, và họ gọi cái sau là  êpistêmê, nghĩa là  tri thức hay là  khoa học, và quan niệm rằng nó là tri thức  có nền tảng, vững chắc bất biến. Người La-tinh dịch là  scientia, chữ  science của người Anh người Pháp, hay chữ  Wissenschaft của người Đức cũng là theo quan niệm đó. Triết gia Platon (429-347 trước TLKN) chủ trương rằng chỉ những tri thức về những  đối vật hằng-hữu, bất biến, như những  Ý-tưởng, Ý-niệm, mới có thể gọi là  khoa học ; còn kiến thức về những đồ vật hay đối vật luôn luôn biến đổi, vô thường, thì không thể gọi đó là khoa học được.

Tiếp theo quan niệm phổ thông đó thì khái niệm  khoa học đã được người Aâu châu dần dần xác định.

Vào thời Cận-đại, lúc mà khoa học bắt đầu được thành hình với những qui tắc rõ rệt, thì Descartes (1596-1650), vừa là triết gia vừa là nhà khoa học, định nghĩa trong sách  Những qui tắc hướng dẫn trí khôn như sau : « Qui tắc thứ II : Khoa học là tri thức vững chắc và hiển nhiên » [6].Ông lý luận tiếp như sau : « Thực vậy, nếu ta áp dụng đúng qui tắc đó thì những cái mà ta có thể nghiên cứu một cách khoa học thực ra chẳng có là bao nhiêu (…) Nếu tôi suy luận đúng, thì trong các môn học mà ta biết, ta chỉ có thể áp dụng qui tắc đó vào môn số-học, và kỷ-hà-học (hình-học) mà thôi » (tr 40). Lý do là « vì hai môn đó có đối vật đơn thuần, không có thể bị kinh nghiệm pha vào làm cho kém phần chắc chắn, và vì hai môn đó hoàn toàn chỉ là một chuỗi những hậu quả mà ta lý luận ra » (tr 41). Như thế có nghĩa là đối với Descartes chỉ có những môn học về hình thức lý tưởng (sciences formelles), như toán học và luận-lý-học, không có nội dung vật chất, mới đáng gọi là khoa học. Thật đúng như quan niệm của Platon : tri thức về vật chất khả giác không thể gọi là khoa học được, vì nó ở trong phạm vi vô thường, không có gì là chắc chắn.

Nói thế nhưng Descartes không phải là không biết đến các môn như vật-lý-học, v.v. Oâng kết luận qui tắc thứ II như sau : «Thực ra kết luận ở đây không phải là : chỉ cần học số học và hình học mà thôi, nhưng làthế này : những ai muốn tìm con đường đi thẳng tới chân lý thì không được quan tâm đến những cái gì mà mình không có thể biết chắc được như trong những lập luận minh chứng của số-học và hình-học » (tr 42).

Có thể nói là khoa học do người Aâu châu quan niệm thì dựa vào căn bản triếât học của Platon. Vẫn biết là khoa học có tính cách thực nghiệm, nhưng kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm thường nhật, tự nó không đưa tới khoa học. Lý do là vì nó ở trong phạm vi vô thường, luôn luôn biến đổi, có chồng chất mãi lên cũng không bao giờ cùng, không bao giờ đưa tới kết quả vững chắc. Muốn thế, phải vượt lên trên những đối vật vô thường, để  tổng-quát-hóa thành những  đối vật lý tưởng, bất biến, rồi xác định liên quan, để đoán ra một  thế giới lý tưởng. Như vậy, tuy không phải là đối vật lý tưởng, như trong toán-học và luận-lý-học, nhưng những đối vật của khoa học thực nghiệm cũng gần giống như thế, vì chúng là những  đối vật lý-tưởng-hóa.

Chính vì tri thức khoa học là một cấu trúc lý tưởng, được xây dựng lên từ các sự kiện đa tạp và vô thường, cho nên không thể coi nó là phản ảnh của sự vật trong đầu óc của ta. Đi xa hơn tí nữa, ta có thể nói rằng khoa học tự xây dựng nên chân lý của nó, bằng cách tựa vào các sự kiện vô thường mà lập ra  sự kiện lý tưởng, có ranh giới được xác định rõ ràng, rồi đặt ra tiêu chuẩn làm việc, tìm ra các định luật là  liên quan lý tưởng giữa các sự kiện ấy, và tiêu chuẩn kiểm chứng, sao cho mọi người có thể đồng ý được.

Như vậy, tuy gọi là khoa học thực nghiệm, nhưng cái đặc sắc của khoa học là tính cách  lý tưởng, tổng quát. Muốn tới lý tưởng ấy thì phải đưa thực nghiệm lại gần toán pháp. Cho nên từ thời Phục-hưng, khoa học của người Aâu châu đã theo quan niệm của Descartes và Galilei (nhà toán học, vật lý học và thiên văn học, 1564-1642) và chủ trương dùng các cơ cấu toán pháp để lên khuôn cho thực tại, nghĩa là dùng  phép đo lường để mô tả sự vật, viết lên thành những con số, rồi so sánh các con số để nhận ra tỷ lệ, và đưa các tỷ lệ chung lên thành định luật khoa học. Đo lường ở đây là đo lường thể chất bên ngoài của sự vật, và đo lường theo ba phương hướng : về  không gian thì đo xem dài vắên là bao nhiêu phân, về  trọng lượng thì đo xem nặng nhẹ là bao nhiêu gờ-ram, về  thời gian thì đo xem lâu mau là bao nhiêu giây đồng hồ. Người Pháp nói rằng như thế là theo hệ thống CGS (centimètre, gramme, seconde).

Nói thế khác, các hiện tượng trong trời đất, thay vì được xét về  phẩm thể (qualité) để xem  nó là gì, thì từ nay được mô tả theo  lượng thể (quantité) để biết  nó là bao nhiêu. Như thế tức là hạn chế những yếu tố do cảm giác chủ quan về phẩm thể, như : nóng-lạnh, mau-chậm, nặng-nhẹ, xanh-đỏ, sáng-tối, vì rằng những cảm giác ấy có tính cách tương đối, người này không cảm thấy như người kia, lại mơ hồ ; muốn rõ ràng thì phải nói : nóng bao nhiêu độ, tốc độ một giờ là bao nhiêu cây số, nặng bao nhiêu cân, tần số làn sóng điện tử là bao nhiêu, v.v. Càng hạn chế được yếu tố chủ quan thì người ta càng dễ đồng ý với nhau hơn, và đó là một thành phần của khái niệm « khách quan » trong khoa học.

Phép đo lường lại chuyển những nguyên lý tổng quát thành những định luật xác đáng, ví dụ thay vì nói một cách chung chung, một cách mơ hồ, theo như  nguyên lý nhân quả (principe de causalité), mà ai nấy đều thừa nhận [7] , rằng : cái gì cũng có nguyên nhân, thì xướng ra  định luật nhân quả (lois causales), nói rõ là nguyên nhân loại A này thì đưa tới hậu quả loại B kia, theo tỷ lệ như thế nào, rồi đặt ra cách thức  kiểm chứng. Cũng cần phải nói thêm là vì có nhiều thứ đối vật nghiên cứu, cho nên người ta phân loại ra làm nhiều thứ khoa học theo những phương pháp khác nhau. Nói rõ hơn, khoa học về con người, linh ư vạn vật, tất nhiên là phải khác khoa học về sự vật vô linh [8] .

Từ hơn 20 thế kỷ, người Aâu châu đã phân loại các môn học theo nhiều kiểu, và có những kiểu rất phiền toái. Sau đây chỉ xin đan cử ra ba lối phân loại vừa có ý vị, vừa gần chúng ta hơn.

Thứ nhất: Auguste Comte (1798-1857). Oâng này là người Pháp, đã viết  Khóa trình về  triết học thực nghiệm (Cours de philosophie positive), trong đó các khoa học được phân loại vừa theo thứ tự xuấât hiện trong thời gian, vừa theo thứ tự tiến triển. Cái ưu điểm của ông là đã để ý đến thứ tự, phải có cái đơn sơ ra trước, rồi mới có cái phức tạp đến sau. Kết quả như sau :

1) Toán học (mathématique),

2) Thiên văn học (astronomie),

3) Vật lý học (physique),

4) Hóa học (chimie),

5) Sinh lý học (physiologie),

6) Xã-hội vật-lý-học (physique sociale) hay là xã hội học (sociologie).

Điều đáng chú ý là ông gọi ba môn, thiên-văn-học, vật-lý-học và hóa-học là khoa học về những vật vô-cơ-thể, và gọi hai môn sinh-lý-học và xã-hội-học là khoa học về những vật hữu-cơ thể.

Thứ hai: Jean Piaget là nhà tâm-lý-học Thụy-sĩ đã nghiên cứu về tâm-lý-học và về luận-lý-học, ông lấy lại các khoa học do Comte đã liệt kê, nhưng ông nới rộng toán-học thành ra một ngành bao gồm cả toán học lẫn luận-lý-học, lại nới rộng sinh-lý-học ra thành sinh-vật-học (biologie), rồi thêm vào sổ đó một khoa học mới, mà ông là chuyên gia, đó là tâm-lý-học (psychologie), đồng thời xếp 7 khoa học đó làm 4 loại là :

I- Luận-lý-học và toán-học,

II- Vật-lý-học và hóa-học,

III- Sinh-vật-học,

IV- Tâm-lý-học và xã-hội-học (tức là hai khoa học về con người).

Thứ ba: Jean Ladrière, triết gia đương thời, người Bỉ, cựu giáo sư tại Louvain, chuyên về triết lý khoa học[9][9] . Oâng này căn cứ vào lối phân loại của Piaget, nhưng ông gọi loại I của Piaget là những khoa học về hình-thức lý tưởng (sciences formelles), xếp loại II và loại III thành một loại mới và gọi là những khoa học vừa thực nghiệm vừa có hình thức lý tưởng (sciences empirico-formelles) [10][10] , còn loại IV là khoa học về con người thì gọi chung là các khoa học thuyên-thích (sciences herméneutiques). Cái đặc điểm của khoa học về con người « linh ư vạn vật » là ở chỗ bao giờ cũng phải thuyên thích, phải giải thích, phải tìm  hiểu ý bên trong (ý kiến, ý định, ý nghĩa) thì mới hiểu được tác động và cử chỉ quan sát được ở bên ngoài. Tóm lại có ba loại khoa học như sau :

I- Khoa học về hình-thức lý-tưởng,

II- Khoa học về thiên nhiên, vừa thực nghiệm, vừa có hình thức lý tưởng,

III- Khoa học thuyên-thích, tức là khoa học về con người.

Cái ưu điểm của lối phân loại này là vừa đơn giản, lại vừa nói lên được cái đặc sắc của mỗi loại khoa học nói chung, và của khoa học về con người nói riêng. Nhưng thiết tưởng trong khoa học loại II về thiên nhiên, cũng cần phải theo như Jean Piaget mà phân biệt những vật vô cơ thể với những vật hữu cơ thể, nhất là những vật có cảm giác và biết tự động như loài vật.

3. KHOA HỌC VỀ THIÊN NHIÊN

Ở đây ta không đề cập đến các khoa học về hình thức lý tưởng, nhằm suy luận sao cho tránh được mâu thuẫn, theo  nguyên lý phi mâu thuẫn (principe de non-contradiction),nhưng tự nó không cho ta biết gì cụ thể về thế giới hình sắc. Tuy nhiên cần phải có hệ thống toán học và luận lý học làm như rường cột, như bộ xương, thì mới có thể tổ chức những sự kiện rời rạc, vô thường, mà ta quan sát được trong thế giới hình sắc, thành ra một thế giới « hữu thường », vận chuyển đều đều, làm cho ta có thể tính toán để thực hiện các dự định trong đời sống thường nhật.

Thực ra, trong đời sống thường nhật, con người ta đã nhận ra là các sự vật trong trời đất không phải là hoàn toàn vô thường, nhưng vận chuyển một cách khá đều đều, và mình theo như thế mà trù tính, mà đặt ra kế hoạch hành động. Như thế sống đã là tìm cách vượt lên trên những yếu tố hỗn độn và vô thường. Tiếp theo vào đó, khoa học về thiên nhiên một đàng thì quan sát kinh nghiệm cho có qui củ, một đàng thì tìm hiểu cho rõ tính cách đều đều đó, theo phương pháp lý sự, để đùưa ra những định luật. Cho nên khoa học về thiên nhiên là loại khoa học về những sự vật vô-linh ở bên ngoài con người, nó vừa phải có tính cách thực nghiệm, lại vừa phải có hình thức lý tưởng.

Về mặt hình thức thì dĩ nhiên là phải theo  nguyên lý phi mâu thuẫn giữa các hiện tượng đồng thời xảy ra. Nhưng giữa các hiện tượng không đồng thời, thì người ta phải tìm cho ra mạch lạc, phải nhận xét rằng có cái này thì mới có cái kia, có nguyên nhân thì có hậu quả, cho nên ai muốn được hậu quả thì phải đặt ra nguyên nhân. Chứ nếu bất cứ cái gì cũng có thể xuất hiện mà không có nguyên nhân, thì thế giới hỗn độn, không sao hiểu được. Như thế có nghĩa là  nguyên lý nhân quả (principe de causalité) đã sẵn được mọi người công nhận và áp dụng trong đời sống, trước khi nhà Phật nêu ra như là một lý thuyết mới mẻ.

Nguyên lý nhân quả nói lên rằng :  không có cái gì mà không có nguyên nhân, hay nói thế khác :  cái gì cũng có nguyên nhân. Đây là một  nguyên lý (principe), tức là  cái lẽ mà ta nhận  ngay từ đầu, chứ  không phải là một định luật (loi) mà ta căn cứ vào thực nghiệm mà lập nên, vì lý do là chưa có ai quan sát được tất cả các sự kiện trong trời đất, để rồi chứng thực rằng cái gì cũng có nguyên nhân.

Nhưng, như đã nói vắn tắt trên đây, nếu chỉ biết có nguyên lý nhân quả thì vẫn còn là mơ hồ, chưa có thể tới khoa học được. Thực vậy, tuy ai cũng nhận rằng có  quả thì phải có  nhân, nhưng như thế thì ngay trong đời sống thường nhật cũng chưa đi đến đâu cả, vì người ta có thể từ một hậu quả mà luận bừa bãi ra một nguyên nhân không đâu, ví dụ như nói rằng mình phải tai ương là vì, như người ta thường nói : « ra đường gặp gái » ; ví dụ khác : người trong làng bị ốm đau là vì khi người Pháp xây đường xe lửa đã chạm vào « long mạch », v.v. Vấn đề là phải tìm cho ra đích xác và có chứng cớ  quả nào thì  nhân nào,  nhân nào thì  quả nào. Nhưng như thế cũng lại chưa đi đến đâu, vì nếu mỗi  quả có riêng  nhân của nó, thì kinh nghiệm quá khứ không có thể cho ta biết được liên quan giữa những  nhân   quả sẽ có trong tương lainhất là nếu liên quan nhân quả chỉ là ngẫu nhiên, vô thường hay là thất thường, nay thế này mai thế khác.

Vì thế muốn có khoa học thì  nguyên lý nhân quả phải đi kèm một nguyên lý khác, mà tôi tạm gọi đó là  nguyên lý hữu thường hay là  hữu luật (principe de légalité),theo nguyên lý này ta tiên nhận rằng vạn vật vận chuyển một cách điều hòa. Hai nguyên lý đó hợp với nhau làm thành  nguyên lý tất-định (principe du déterminisme), có thế người ta mới có ý kiến là đi tìm những  định luật (lois) điều khiển vạn vật. Cần phải nói ngay rằng như thế là ta quan niệm sự vật có thể được xếp thành từng loại, và định luật sẽ nói lên rằng những  nhân thuộc về loại này thì sinh ra những  quả thuộc về loại kia ; chứ nếu cho rằng mỗi sự vật là riêng biệt, không có gì chung với một sự vật nào khác, thì việc tìm định luật chung cũng thành ra vô nghĩa.

Đó là những nguyên lý làm nền tảng cho hoạt động khoa học về thiên nhiên. Nhưng tôi xin dừng lại ở đây, chứ không đi vào chi tiết của hoạt động riêng cho từng khoa học, không đi vào phương pháp thực nghiệm, quan sát, thành lập các định luật nhân quả, thí nghiệm để thử xem có đúng hay không, rồi thu các định luật đã được kiểm chứng vào trong một lý thuyết (théorie), vì đó là thuộc về phạm vi của môn tri-thức-luận, hay là khoa-học-luận (épistémologie).

Tuy khoa học bắt đầu từ nguyên lý nhân quả, nhưng cũng chính vì tính cách thực nghiệm, thực dụng, của nó, cho nên người ta sinh ra nghi kỵ chính cái khái niệm nhân-quả,  nhân sinh ra quả. Vì lẽ rằng cái nguyên nhân đã là hậu quảø của một nguyên nhân trước, và cái hậu quả lại có thể thành nguyên nhân cho hậu quả khác ; rồi thêm vào đó, một sự kiệân xảy ra lại thường có nhiều hiện tượng đi trước, cho nên không thể nói đích xác cái gì là nguyên nhân, cái gì là hậu quả. Thành ra người ta ngại không muốn dùng khái niệm  nhân quả vì nó có tính cách siêu hình, và thường dùng khái niệm  điều kiện (condition) : cái đi trước (antécédent) là điều kiện để có cái đi sau (conséquent). Rồi người ta phân biệt ra hai thứ điều kiện :  điều kiện cần thiết, không có không được (condition nécessaire, condition  sine qua non) và  điều kiện vừa đủ (condition suffisante). muốn làm ra một hiện tượng, thì phải đặt ra được điều kiện vừa đủ làm ra nó ; còn khi muốn tránh một hiện tượng, thì chỉ cần thiếu đi một (trong nhiều) điều kiện cần thiết[11][11] .

Đến đây thiết tưởng cũng nên nói thêm ít nhiều về chủ trương của Karl Popper vềû chân lý khoa học thực nghiệm. Nhà khoa học định rõ giới hạn sự kiện mình quan sát, rồi sau khi đã quan sát một số sự kiện thì dùng phép qui nạp (induction) mà đặt ra một định luật tổng quát có giá trị đối với tất cả các sự kiện cùng một loại như thế. Ai cũng nhận ngay ra rằng những sự kiện đã quan sát được, so với các sự kiện đã và sẽ xảy ra mà mình không thể quan sát được, thì chỉ là một phần rất nhỏ, xét về mặt thống kê thì thật là không đáng kể, nhưng chính vì  theo nguyên lý hữu thường, theo nguyên lý tất định, nhà khoa học  đoán rằng định luật khoa học đó có thể có giá trị tổng quát cho tất cả các sự kiện cùng loại.

Đoán như thế, nhưng không thể biết chắc được, cho nên phải tiếp tục thí nghiệm để thử xem có đúng thật hay không, nhưng thí nghiệm bao nhiêu đi nữa thì vẫn không sao thử được tất cả các sự kiện. Dĩ nhiên là khi gặp một sự kiện không theo như định luật ấy, thì định luật phải đưa ra xét lại. Vì thế, về mặt lý thuyết thì Popper nói đúng : định luật chỉ là một  điều phỏng đoán chưa bị kinh nghiệm lay đổ. Những điều sở đắc của khoa học không có tính cách chắc chắn như những luật toán pháp. Thế mới hay :  lý tưởng khoa học đề ra thì thật là cao, nhưng khi nhìn về  những điều sở đắc của khoa học thì các nhà khoa học đều có thái độ khiêm tốn, không dám cho là chân lý vĩnh viễn.

Nhưng lạ thay : trong thực hành thì ta cứ dùng các định luật như thế mà tạo ra máy móc hữu hiệu, làm tầu bè làm hỏa tiễn đưa lên cung trăng. Đó mới là điều huyền diệu, không biết vì đâu mà giữa trí óc của ta và thế giới bên ngoài hình như có tương ứng. Nhưng tuy vậy ta cũng phải khó nhọc mới tìm ra các định luật khoa học, cho nên không thể nói một cách duy tâm rằng sự vật bên ngoài chỉ là do trí óc ta tạo nên.

(còn nữa)

Xem Thêm

Yên Bái: Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà
Ngày 29/10, tại huyện Lục Yên, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp với Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lục Yên và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh đã tổ chức hội thảo Nghiên cứu di tích Lịch sử - Văn hóa vùng hồ Thác Bà phục vụ nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà.
Hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn, hiệu quả và bền vững
Ngày 18/10 tại thành phố Huế, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Chăn nuôi Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: Áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và tuần hoàn nâng cao hiệu quả sản suất trong chăn nuôi trang trại nhỏ và hộ gia đình.

Tin mới

Phú Thọ: Đề xuất xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
Sáng 26/11, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức hội thảo “Nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025; đề xuất khâu đột phá và một số nhiệm vụ trọng tâm phục vụ xây dựng dự thảo Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030” đối với đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà KH thuộc các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Bộ TT&TT làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết việc thực hiện Quyết định số 362/QĐ-TTG
Chiều ngày 27/11, tại trụ sở LHHVN, Đoàn công tác của Bộ TT&TT đã có buổi làm việc với LHHVN khảo sát sơ kết Quyết định số 362/QĐ-TTG ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Thứ trưởng Bộ TT&TT Bùi Hoàng Phương và Phó Chủ tịch LHHVN Phạm Ngọc Linh chủ trì buổi làm việc.
Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.