Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 08/11/2008 00:05 (GMT+7)

Cuộc đời để lại

-         Lúc viết những dòng này, tôi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy đơn giản hơn.

Ngừng một lát, dường như để nhớ lại một chuyện gì đấy, Xuân Quỳnh kể thêm:

-         Hôm nọ có người còn hỏi tôi có hay thuộc thơ mình không. Quả thật, có khi tôi quên chứ không phải cái gì tôi cũng thích đâu. Nhưng những bài thơ mà tôi thích bao giờ tôi cũng nhớ, nhớ cái tâm trạng nó chi phối mình, khi làm bài thơ ấy...

-         Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc động?

-         Người khác thế nào, tôi không biết. Với lại, ông còn lạ gì những xúc động ẩm ương của những nhân vật ấm đầu, khi viết tưởng xúc động lắm, mà bài thơ vẫn nhạt như nước ốc. Nhưng đúng là trong tôi, lúc viết, như bị ám ảnh, phải viết ra bằng được mới thôi. Còn hình thức bốn chữ hay tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà có mỗi cái vần bắt không xong, thì còn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa.

Nói đến đây, Xuân Quỳnh cười xoà, bảo tôi cất các thứ tài liệu chị cho mượn vào túi, rồi lảng sang chuyện khác.

Thời xưa, tương truyền có những bài thơ xuất khẩu thành chương, những người buộc phải làm thơ trong một thời hạn nào đó, và danh bất hư truyền, viết bao giờ cũng đạt.

Gạt đi llối bắt vần ép chữ gò gẫm kiểu mấy chàng hay chữ làm thơ con cóc, thì đúng là có những người sinh ra để làm thơ, và các bài thơ được hình thành một cách xuất thần, nghĩa là thật dễ dàng, như có ai ốp đồng vào tay vậy. Kiểu như thơ Hồ Xuân Hương:

-         Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

-         Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông

Thơ Tú Xương:

-         Sông kia rày đã nên đồng...

Ở đây tôi không dám nói trong những người làm thơ hiện nay, ai sẽ còn lại với văn học, sáng tác của ai có giá trị lâu dài. Nhưng nếu như cần nêu lên một người hình như rất gần với thơ, sinh ra để làm thơ thì người đó là Xuân Quỳnh.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh có lần bảo riêng với tôi:

“Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã gọi là phụ nữ thì phải sinh con đẻ cái vậy”.

Sau khi đọc xong bài Sóng, đăng trên báo Văn nghệđầu 1968, nhà thơ Vũ Cao cũng có tâm sự, đúng kiểu đồng nghiệp vần nhìn nhau:

-         Bài này Quỳnh nó viết bợm thật. Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩ là phải viết, viết một cái gì đó cho ra trò một chút, cho nó phải nể.

Những ý kiến tương tự như thế - khen thơ Xuân Quỳnh dễ đọc, khen thơ làm tự nhiên mà thuyết phục – khá nhiều.

Thì ra, bên cạnh việc nhắc nhở nhau lao động kiên nhẫn, bền bỉ, chúng ta còn thống nhất ở một điểm nữa: vẻ đẹp cao quý nhất trong văn học phải là vẻ đẹp tự nhiên. Nó không có quyền mang dấu ấn những gắng gỏi gò gẫm nơi tác giả, dù khi viết, tác giả đã phải lao tâm khổ tứ rất nhiều. Nhà văn phải làm chủ cảm hứng của mình, phải biết “thai nghén”, chuẩn bị, lại phải mau mắn thông minh khi “sinh nở”. Nhiều người thành công cho biết, càng kéo dài thời gian viết, tác phẩm càng dễ nhạt.

Trong cơn say sưa bộc bạch, một nữ văn sĩ từng tự nhận:

“Nếu còn tin tưởng ở Thượng đế, tôi sẽ cám ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm có những nhịp lầm lỡ, cộng thêm với một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí ngạo mạn”.

Tuy ở một phương trời khác, nhưng Xuân Quỳnh có thể hoàn toàn chia xẻ với những tâm sự kiểu đó. Giữa đám bạn bè cùng nghề chị thường tự nhủ: “Đối với người sáng tác, không có gì sợ bằng sự nghèo nàn. Nghèo trong cảm xúc nhận xét thì không thể tha thứ được”. Nhưng có lẽ điều đáng lưu ý hơn là độ căng và khả năng luôn luôn thay đổi đột ngột của xúc cảm. Trong đời sống hàng ngày cũng như trong sáng tác người thi sĩ này không chịu được cái gì trung bình nhợt nhạt. Yêu hay ghét, đều phải hết lòng. Thà thái quá còn hơn bất cập. Và bởi lẽ xúc cảm là cụ thể, là của từng giây phút một, nên chúng thường xuyên thay đổi trạng thái. Một người như Bằng Việt đã diễn tả rất hay lối cảm xúc đó của tác giả Gió Lào cát trắng. Bài thơ Người cùng đi đườngchỉ có cái phụ đề “gửi một người làm thơ cùng lứa tuổi”, nhưng ai đọc cũng có thể đoán ngay là để tặng Xuân Quỳnh:

Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh

Đi như lao, như lửa cháy trong mình

Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập

Những sườn dốc: rồi những vòng cua gấp

Băng trong đời, như bạn đã từng quen

....

Vẫn đó – Gió Lào cát trắng trong thơ

Những thượng nguồn sông, buồn vui bất chợt

Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột

Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa.

Về phần mình, tôi nhớ những ứng xử của Xuân Quỳnh trong đời sống hàng ngày, nét mặt bồn chồn của chị khi chờ gặp một người này, khi mong được tham gia một chuyến du lịch kia, hoặc nỗi sung sướng và thái độ trân trọng, quý hoá, khi được cầm trên tay một cuốn sách mà từ lâu đã nghe tiếng. Có thể nói đấy là những lúc con người ấy biết sống hết từng giây phút một ! Sự thiếu nhẫn nại toát ra ở cái run rẩy của giọng nói. Vẻ sốt sắng hiện lên trên nét mặt. Tham lam quá đi, mà sự tham lam ở đây lại lộ liễu quá đi - người ta có thể nhận thấy như thế, và chính Xuân Quỳnh cũng đã cảm thấy như thế. Nhưng bởi lẽ, nỗi ham muốn đã lên đến cực độ, lại hiểu rằng, vì thơ, vì sáng tác, sự ham muốn của mình là không vụ lợi (nghĩa là người ta cũng dễ tha thứ) nên Xuân Quỳnh vẫn sống vậy, xúc cảm vậy. Một lối xúc cảm luôn luôn mang lại những sung sướng, và đau khổ hơn người! Câu chuyện sau mới xảy ra cách đay ít lâu: Xuân Quỳnh có một người chị là Đông Mai hiện đang dạy học ở thành phố Hồ Chí Minh. Một lần, có một người bạn của Xuân Quỳnh từ Hà Nội tới thăm chi Mai.

-         Thế nào cậu, dạo này ngoài đó, Quỳnh nó sống thế nào? Vui hay buồn?

Người bạn kia ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời:

-         Em gái chị là một người đặc biệt, nên vui cũng vui hơn người khác mà buồn cũng buồn hơn người khác, làm sao trả lời cho rành được.

Khi nghe kể lại như vậy, Xuân Quỳnh chỉ cười, không phản đối. Chắc trong thâm tâm Quỳnh nghĩ “Đúng là giời đầy mình nhưng có thế mình mới viết được”.

Một phương diện khác, làm nên cái chất nhà thơ ở Xuân Quỳnh là sự thành thực, thành thực như một nhu cầu mỗi khi sáng tác; tức cũng là mối quan hệ ràng rịt giữa thơ làm ra và cuộc sống hàng ngày của nhà thơ.

Chẳng hạn, chúng ta đều biết với thơ, những địa danh (tên một con sông, một dãy núi), vốn không phải là một cái gì quan trọng. Trong một bài thơ tình, xã Bảo Ninh hay xã Quang Phú, núi Cánh Diều hay núi Mây Bay thì cũng thế. Không thiếu gì người, không đến biên giới bao giờ vẫn sẵn sàng đề dưới bài thơ phục vụ kịp thời của mình mấy chữ “Biên giới Tây Nam ngày...” cốt để đăng báo. Một hành động như vậy, Xuân Quỳnh coi là gian manh, không thể chấp nhận được. Những người có dịp quen biết riêng tác giả Gió Lào cát trắngđều biết chị có thói quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến từng khía cạnh tưởng là nhỏ nhặt. Mỗi bài thơ ra đời, đều có cái lý lịch cụ thể của nó, và nếu chắp các bài thơ đó lại, người ta có thể có cả cuộc đời Quỳnh. Đấy không phải là một sự khoe khoang hay láu cá nào hết. Xuân Quỳnh buộc phải viết vậy, vì trong những trường hợp đó, chị đã nghĩ bằng thơ, sống bằng thơ, dùng thơ để tự hiểu mình và giúp mọi người hiểu mình. Lúc làm xong bài thơ cũng là lúc nhà thơ thấy lòng vơi đi ít nhiều, vì những dòng chữ kia như biết chia xẻ với tác giả của nó, cả những vui sướng cực độ, lẫn những đau thương đến xé ruột xé lòng.

Lúc cao hứng lên, Xuân Quỳnh tự hào:

-                     Nói được niềm vui nỗi khổ của chính mình, tôi cảm thấy có cái gì sung sướng không mấy ai có! Như người khác không được yêu, mà mình được yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng.

Những lúc vất vả quá - vất vả với nghĩa đau khổ dằn vặt về tinh thần – Xuân Quỳnh lại quay ra mát mẻ.

-         Thỉnh thoảng có người thấy mình khổ quá, mà vẫn làm được thơ, tỏ ý an ủi “Bà cứ ráng chịu, rồi chắc có thơ hay”, tôi đã trả lời thẳng thừng: “Tôi sẵn sàng từ bỏ hết những bài thơ kia đi, miễn là tôi khỏi khổ!”.

Chẳng phải dằn dỗi gì đâu, ở chỗ này nữa, Xuân Quỳnh cũng rất thành thực. Người ta thường nói trong những người viết văn y như mãi mãi còn một đứa trẻ con, bỡ ngỡ trước việc đời. Trong Xuân Quỳnh cũng có một đứa trẻ con ấy, đôn hậu, cởi mở, nhưng cũng ngỗ nghịch, ham hố, liều lĩnh, đặc biệt là rất cảm tính trong nhận xét và đối xử. Cũng vì thế, đã bao lần con người đó trải qua những thay đổi rất đau khổ. Đọc thơ của chị nhất là thơ tình một hồi, chúng ta thấy những khát khao của một người “yêu rất nhiều mà nhận lại chả bao nhiêu” (1). Đơn độc đi trong cuộc đời, và lúc nào cũng cảm thấy phía trước là bất hạnh, là bão tố. Ngay trong thời gian sống hạnh phúc nhất, con người đó vẫn cảm thấy là phải biết giữ gìn, phải mau tận hưởng, nếu không, nó sẽ qua đi rất nhanh. Cuộc sống vì thế bao giờ cũng căng lên như những sợi dây đàn, người ngoài nhìn vào thấy sợ hãi thay cho người trong cuộc, nhưng lại hiểu rằng đó là cội nguồn của sáng tạo.

Từ khi cho in những bài thơ đầu tiên, cho tới giữa năm 1988, sửa soạn in tập thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã có một chặng đường thơ khoảng một phần tư thế kỷ. Nhìn vào thơ, thấy con đường con người này khá thông thoáng. Cứ đều đều vài ba năm lại có một tập thơ ra đời. Trong khi nhiều bạn cùng lứa đã bỏ cuộc, nhiều người già đi, cũ đi, tự lặp lại mình trong thơ thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên riêng, và có được cái hơi trẻ trung, tươi tắn. Chẳng những thơ bầu bạn với Xuân Quỳnh, thơ còn nâng cao con người nhà thơ lên. Qua thơ, người ta bắt gặp một Xuân Quỳnh hào phóng, nồng nhiệt, tha thiết với cuộc sống.

Tuy nhiên, không phải là không có lúc, trong thơ đã len vào giai điệu khác.

Đường tít tắp mà ngày càng xế bóng

Mệt mỏi chăng hỡi người bạn đồng hành

Sự mệt mỏi ấy trước tiên là đến từ phía cuộc sống những lo toan chợ búa, gia đình, chồng con mà càng những năm gần đây, với Xuân Quỳnh càng là một gánh nặng. Nhưng có thể là còn từ phía sáng tác nữa chăng? Tôi nhớ những lần trò chuyện, khi nào nghe tôi kể có đọc thêm được quyển này quyển kia, là y như Xuân Quỳnh có vẻ buồn hẳn đi. Hình như một người nhạy cảm như chị một lúc nào đó, đã mang máng nhận ra rằng trong thơ, mình đã đến cùng trên con đường đã chọn, mà đi tìm những nẻo lối mới, thì chưa biết ở phương nào. Những đòi hỏi học thêm, đọc thêm, những đòi hỏi từ sự bồi hồi của văn hoá nói chung, đến tuổi này càng thấy bức thiết, mà sức lực đâu được như xưa, thời gian còn lại rất ít. Cái bi hài kịch của những người được một hai cuốn sách đầu đã trở thành nhà thơ nhà văn rồi, thì sống lêu têu vạ vật chẳng còn viết được cái gì nên hồn – cái bi hài kịch ấy, lúc nào cũng có thể đến với mình chăng? Nếu thế thì buồn, thì mỏi mệt cũng là điều khó tránh.

Năm ngoái năm kia đây, cùng một số bạn bè khác, thỉnh thoảng tôi lại nghe Xuân Quỳnh thở ra những điều ngán ngẩm:

-         Dạo này tôi rất chán. Nhà cửa thì chật chội, nóng nảy, bận bịu...

Tôi cũng hùa theo:

-         Đời sống khổ quá, có lúc tôi phải tự nhủ: Chết đi, cũng chả có gì phải tiếc.

-         Tiếc thì không tiếc, nhưng nghĩ có lúc, cuộc sống này không có mình nữa cũng buồn.

Đến đó, câu chuyện của chúng tôi chuyển sang một hướng khác. Nhưng ra về, mà tôi cứ vân vi mãi, chẳng lẽ người kêu rằng chán đời, chán làm thơ đó, lại là Xuân Quỳnh? Bởi những tập sách còn kia, giở trang nào ra mà chẳng gặp một con người thèm yêu thèm sống, và một trong những bài thơ hay nhất của người đó mang tên Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.

                 Và trời xanh kia trả cho vô tận

         Trời không xanh trong đáy mắt em xanh

                  Và trong em không thể còn anh

          Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.

Điều gì đã xảy ra với người làm thơ và những người làm thơ khác? Lâu nay, cứ tưởng mình và bạn bè mình còn trẻ, nay hoá ra ở ngưỡng cửa của tuổi năm mươi rồi, những điều lúc còn trẻ, tưởng là xa lạ, sự sống, cái chếtlà điều phải bàn rồi. Đã đến lúc mình có thể chết rồi chăng? Hay chết cũng chưa thể là một sự giải thoát đích thực, để chuẩn bị cho một cái chết xứng đáng phải tiếp tục sống nữa, sống mãnh liệt hơn? Chưa kịp bàn thêm với nhau thì Xuân Quỳnh đã nằm xuống rồi, và giờ đây, đối với tôi, chỉ còn có cách tiếp tục tìm câu trả lời ở những dòng thơ người bạn đó đã viết.

Xem Thêm

Hà Giang: Hội thảo quản lý sử dụng, giải pháp nhân rộng 2 mô hình KHCN tiêu biểu
Ngày 04/4/2024, tại Hà Giang, Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Hà Giang phối hợp với Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) - Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Đánh giá công tác quản lý, sử dụng mô hình nhà tiêu sinh học (NTSH) không dùng nước; hệ thống cấp nước sạch và nước uống trực tiếp (mô hình nước uống học đường - NUHĐ).
Đồng Tháp: Tổ chức hội nghị về Trí tuệ nhân tạo AI
Ngày 27/3, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Đồng Tháp (Liên hiệp hội) đã phối hợp với Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội nghị “Trí tuệ nhân tạo (AI): Xu hướng phát triển và những gợi mở cho đội ngũ trí thức hiện nay”.

Tin mới